Hôm nay,  

HẤP HÔN TÔN NỮ

07/11/201711:32:00(Xem: 12091)

Chiều nay, chúng tôi được mời tham dự Sinh nhật 80 và 85 của một đôi vợ chồng thuộc thế hệ huynh trưởng được tổ chức tại một biệt thự ở Granite Bay, gần thành phố Sacramento, thủ phủ tiểu bang California. Có thể nói đây là một sự kết hợp của hai người rất đặc biệt thành một “cặp đôi hoàn hảo” (một danh từ rất phổ biến tại Việt Nam nội địa hiện nay được dịch ra từ “the perfect couple”) để diễn tả những cặp vợ chồng rất tương xứng và tương hợp với nhau.

Thiệp mời tham dự Tiệc mừng Sinh nhật rất trang trọng và nghệ thuật được gởi trước đến ba tháng. Vừa nhận được thiệp hôm trước, hôm sau bà xã nhà mình đã có bạn học đồng môn trường nữ trung học Đồng Khánh Thành Nội thời những năm sáu mươi gọi, thì thầm trong phone: “Cô mình làm lễ Sinh Nhật mừng thọ 80 – 85. Thì cũng coi như ‘hấp hôn’ sau 12 năm chung sống. Trên cả tuyệt vời. Cô và ông Fred thật xứng đáng ‘thiên duyên tình mộng’ mi ơi!”

Tôi chia sẻ niềm vui của những cô nữ sinh Thành Nội một thời. Trường nữ trung học Thành Nội được thành lập ngày 15-9-1964 là một chi nhánh của trường Đồng Khánh phía tả ngạn sông Hương nên còn được gọi là “Đồng Khánh Thành Nội”. Thế hệ học sinh thời kỳ đầu của trường bây giờ đã lên hàng bà nội, bà ngoại cả rồi. Bà xã nhà tôi là thế hệ đầu tiên của trường Thành Nội. Vâng, tôi nghĩ nhân vật “cô mình” mà nhà tôi và người bạn học ríu ra, ríu rít nhắc đến với niềm vui tươi mát đó xứng đáng nhận nguồn cảm tình nồng ấm, pha chút hồn nhiên đầy cảm tính của thế hệ học trò năm mươi năm về trước vì cô là giáo sư, hiệu trưởng đầu tiên của trường.

Tôi mỉm cười ấm lòng khi nhà tôi hỏi:

“Em không hiểu con H.T. bạn em nói tới chữ ‘hấp hôn’ có nghĩa là gì anh hè?”

Nghe hai…cô nàng 68 xuân xanh còn xưng “tau” gọi “mi” như thuở tóc thề nghiêng nón khiến cho cụ già 72 tôi cũng bồi hồi tấc dạ mà nhớ tới những ngày xưa thân ái.  

Nửa đùa vui, nửa thật bụng trong ý nghĩ chân thành của mình, tôi trả lời:

“Cuộc tình của Bác sĩ Fred và cô Tiểu Bích đã trải qua chặng đường 12 năm, nhưng ai cũng nói là cô thầy ấy… càng tra (già) gừng tỏi càng cay; càng cao tuổi hạc càng say tình nồng… nên có cần chi phải ‘hấp’ nóng thêm nữa!”

Quả nhiên chiều hôm nay được tham dự ngày lễ Sinh nhật 80 của cô Tiểu Bích và 85 của bác sĩ Fred chúng tôi mới thấy rõ hơn điều đó. Hình ảnh đẹp nhất vẫn là hai người tình “bát tuần”. Chàng lúc nào cũng tỏa ấm nụ cười âu yếm với bàn tay dịu dàng chờ đợi khoác vai hay nắm tay Tôn nương 80 không phải chỉ đặc biệt trong buổi tiệc mừng sinh nhật này mà suốt cả 12 năm qua, từ ngày gặp gỡ.


  • blankblank

blank

Ông bà Fred - Tiểu Bích Hodges                                            Ảnh: Đặng Thị Hậu


Qua nhiều dịp trao đổi chuyện trò, dự tiệc vui với cô Tiểu Bích và Fred, chúng tôi vừa thấy rõ, vừa cảm nhận được mối quan hệ nồng nàn, khắng khít của đôi vợ chồng cao niên với hai hoàn cảnh văn hóa, ngôn ngữ, xã hội Việt - Mỹ có muôn vàn điều khác biệt nhưng họ gặp nhau từ căn cơ của suối nguồn hạnh phúc. Tình cờ gặp nhau trên chuyến bay “định mệnh” vào lứa tuổi thất thập. Hình như ở giai đoạn gần cuối một đời thì người trí thức và chuyên môn Hoa Kỳ như bác sĩ Fred Hodges thường có khuynh hướng sống bằng tín hiệu trái tim hơn là qua lớp vỏ phù vân để trang trí bên ngoài. Và, nếp sống có khuynh hướng lắng đọng vào chiều sâu nầy cũng là nếp sống phát triển tự nhiên của người phụ nữ Huế bản lãnh và nhiều trải nghiệm thực tế thời cao niên như cô Tiểu Bích. Phần giới thiệu Slideshow về nếp sinh hoạt của hai ông bà Fred-Bích Hodges đã thể hiện khá rõ nét điều nầy: Một cuộc sống vợ chồng Việt Mỹ tương kính, tương đồng và tương tác từ trong gia đình ra ngoài xã hội.

Ngoài không khí sinh hoạt đại gia đình của cả hai bên, nân khấu Birthday có sự tham gia văn nghệ tưng bừng và sống động như một buổi trình diễn văn nghệ của Đồng Khánh Thành Nội năm xưa. Diễn viên và khán giả đều cảm thấy mình đang trẻ lại chừng… 50 năm như ngày xưa quê mẹ. Chỉ có khác là thay tiếng “Huế mền” bằng tiếng Anh và những đuôi mắt kiếm quang lấp lánh của những cô em nữ sinh Thành Nội đã ẩn hiện dấu chân chim về chiều đang bay về tổ ấm.

Tiệc “Happy Birthday” nầy được tổ chức trang trọng như một lễ hội tư nhân có đẳng cấp cao từ nội dung đến hình thức. Học trò cũ của cô Tiểu Bích đều đã vào hàng thế hệ U (under) - 60 và U-70 ở nhiều miền tiểu bang California và Hoa Kỳ về tham dự khá đông đảo.

Hầu hết những người học trò cũ trường Thành Nội xa Huế đã thành danh, thành phận theo cách nầy hay cách nọ bằng những lối đi riêng, nhưng tâm hồn và cung cách ứng xử của họ vẫn gần nhau hay rất giống nhau theo nếp cũ và tình tự quê nhà. Đã 35 năm xa Huế rồi mà tôi vẫn ưa chuộng và trân trọng cái nét kiêu xa, quý phái mà chân quê của những người “nữ sinh-bà cụ” Huế. Mở đầu chương trình, trên sân khấu lộ thiên, chàng và nàng Fred-Tiểu Bích cầm tay nhau thưởng thức một người học trò đang hát. Bài hát gợi nhớ “Người Nâng Ta Dậy” (You Raise Me Up), lời Brendan Gram, nhạc Roft Lovland để ghi dấu kỷ niệm 12 năm trước khi chàng Fred đang bị chao đảo và đã được nàng Tiểu Bích nâng dậy, đứng vững trên núi tình… chồng vợ tới hôm nay. Người hát là một học trò cũ Thành Nội, cô Lê Thị Huỳnh Trang (bà Ngô Đức Chiến), đang là giáo sư tiến sĩ tại đại học California State University, Fullerton. Hoài niệm cảm động, khung cảnh ấm cúng, dáng vẻ và tiếng hát Huỳnh Trang rất chi là… Sylvie Vartan trong giờ khắc phù du chiều nay đã giúp đưa ký ức và lòng người về sức mạnh tinh thần và tình yêu của thầy trò Thành Nội:


When I am down and, oh my soul, so weary
When troubles come and my heart burdened be
Then, I am still and wait here in the silence
Until you come and sit awhile with me.


You raise me up, so I can stand on mountains
You raise me up, to walk on stormy seas
I am strong, when I am on your shoulders
You raise me up: To more than I can be.


(Khi gục xuống ôi hồn ta trĩu nặng

Lúc muộn phiền trầm lắng nỗi ưu tư

Ta vẫn cứ chờ đây trong vắng lặng

Cho đến hồi người hiện bóng bên ta


Người nâng dậy ta vững vàng đứng núi

Người nâng lên ta lướt bể ba đào

Ta vững chải tựa vai người vươn tới

Người nâng lên ta vượt quá tầm cao.)


Và, chị Oanh hát Love Changes Everything… (Tình Yêu Như Sáng Thế…)


Love, love changes everything

Hands and faces, earth and sky

Love, love changes everything

How you live and how you die


(Yêu nhau đi, tình yêu là chuyển hóa

Nhân dáng, đất trời thế giới quanh ta

Yêu nhau đi, tình yêu thay tất cả

Sống thăng hoa và chết cũng tuyệt vời)


Tình yêu nơi đây êm đềm, không bão liệt kiểu “tình yêu như trái phá…” của Trịnh Công Sơn mà “tình yêu như sáng thế”!

    

* *

Được gặp lại người bạn học cũ của nhà tôi ngồi chung nơi bàn tiệc. Hai người nói to nhỏ một hồi và rồi đến lượt nàng nhà tôi lên tiếng; hơi kỳ kèo nhưng không kém phần… lệnh lạc:

“Em muốn biết chính xác tiếng ‘hấp hôn’ có nghĩa là gì mà em nghe mù tịt, không hiểu gì cả rứa!”  

Tôi hứa với cả hai là sẽ giải thích rõ hơn bằng một bài viết ngắn.

Vậy, nhân đây, tôi sẽ làm chút phiếm luận bỏ túi về một từ ngữ nhớ nhớ, quên quên; lạ lạ, quen quen… rất thú vị mà không biết các xứ khác có thường dùng hay không. Có lẽ từ ngữ nầy không xuất phát từ Huế. Tôi thử tra Từ Điển Tiếng Huế của Bs. Bùi Minh Đức nhưng không tìm thấy. Nhưng khi lên tìm ở Google thì thấy… bắt loạn!


Hấp hôn là gì?


Nhân nói về khái niệm “hấp hôn”, một người bạn - Nguyễn Lan Anh trên trang mạng xã hội – góp ý định nghĩa danh từ là: “Steaming kiss = Hấp hôn”. Một sự suy diễn đầy hình tượng chữ nghĩa khá thú vị nhưng lại lạc ra ngoài mạch văn và ngữ cảnh nên coi như… lạc đề, chị Lan Anh nhé!

Thật ra, “hấp hôn” là một từ ngữ dân gian, không có trong tự điển Việt Nam, nghĩa là không được, hay chưa được, giới học sĩ kinh điển chính thức công nhận!

Theo nhà văn kiêm biên bảo Thái Luân trong “Đèn Nhà Ai Nấy Rạng” (Nước Việt; Tháng Giêng. 1968) thì “Hấp hôn là một khái niệm mang ý nghĩa cảm tính, chúc tụng, mong ước, ghi nhận thân tình có khuynh hướng hòa vui trong quan hệ hôn nhân, nam nữ hơn là một lễ nghi truyền thống trong Văn hóa Việt Nam xưa nay. Vậy nên bất cứ một dịp gặp gỡ, tụ họp nào có ít nhiều liên quan đến đời sống hôn nhân, quan hệ gia đình của bằng hữu, anh chị em hay cha mẹ còn sống như dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày cưới, ngày gặp gỡ, đoàn tụ của các cặp vợ chồng đều có thể gọi một cách đùa vui là dịp‘hấp hôn’…”

Trước hết, “hôn” ở đây là một từ Hán Việt. Hôn (marry), bộ Nữ, có nghĩa là lấy vợ như thường gặp trong các từ ngữ hôn phối, hôn nhân, hôn lễ... Nó đồng âm nhưng khác nghĩa với “hôn” (kiss) là một từ thuần Việt có nghĩa là hành vi xúc chạm biểu hiện tình cảm âu yếm thương yêu. Và “hấp” (steam) lại là một từ thuần Việt có nghĩa đun lên cho nóng hay làm nóng lại. Nó khác với “hấp” (cuốn hút – attract, absorb), “hấp” (vội – hurry)… là những từ Hán Việt.

Nói tóm lại, hấp hôn là một từ kép làm nên bởi một từ thuần Việt là “hấp” có nghĩa là làm nóng lên và một từ Hán Việt “hôn” có nghĩa là lấy vợ. Theo tinh thần quy ước của ngữ học Việt Nam thì đây là một “tiếng lóng” (slang) dân gian truyền khẩu dùng để nói đến việc “hấp nóng” giúp làm tươi mát, nồng ấm, thăng hoa quan hệ vợ chồng, hôn nhân, nam nữ sau một thời gian dài sống chung. Tại Việt Nam, hiện đang có một phong trào “hấp hôn” trong giới đại gia giàu mới là tổ chức các lễ “hấp hôn” còn xa hoa và rầm rộ hơn cả lễ cưới.

Thời xa xưa, khi quan hệ xã hội và gia đình bị ràng buộc bởi truyền thống theo thói quen phường trên xóm dưới, dần dà trở thành những lối mòn gọi là “truyền thống văn hóa” khắt khe và nặng nề nghi thức hôn lễ. Những cặp vợ chồng tuy sống chung đôi dưới một mái nhà nhưng phải hy sinh cái riêng cho cái chung của đại gia đình và xã hội. Sau mười năm, hai mươi năm hay dài hết cả đời, biết bao cặp vợ chồng đã thành danh, thành phận, nhìn lại bỗng tiếc nuối một thời yêu đương, lãng mạn, riêng tư của mình dường như vắng bóng và nguội lạnh. Họ cần phải hâm, phải hấp… cho tình nóng lên và đời ấm lại thông qua những hình thức như sinh nhật, chu niên, lễ hội và gọi một cách nôm na là “hấp hôn” hay “hâm hôn”.

Vắng đi một thời trong hoàn cảnh chiến tranh và cuộc sống khó khăn, khi tuổi càng về già và đời sống kinh tế tương đối thoải mái hơn thì hiện tượng “hấp hôn” được nhắc lại trong giới hạn sinh hoạt bạn bè hơn là sinh hoạt xã hội.

Sau 1975 tại Huế, đã có rất nhiều phụ nữ “êm đềm trướng rủ màn che…” một thời phải lăn mình ra ngoài chợ đời tranh sống. Xót xa nhất là những người xuất thân thầy, cô giáo phải “tháo giày ra lết chợ” như chúng tôi trong buổi giao thời. Một lần, vợ chồng người bạn cùng là giáo sư trong cảnh ăn độn bo bo, khoai sắn như chúng tôi bỗng một ngày cao hứng mời nhóm anh chị em thân tình về nhà ăn tiệc “hấp hôn” mừng ngày anh chị đã chung sống với nhau 25 năm. Đây là một “sự cố” đáng ngạc nhiên cho giới nhà giáo chúng tôi vào thời kỳ này, trong cảnh khó khăn nhất về cuộc sống cơm áo hàng ngày. Anh cao hứng ngõ lời phi lộ cho bữa tiệc rằng, mục đích là giúp “ấm lòng chiến sĩ” mừng hai vợ chồng đã sống chung 25 năm mà không có… nội chiến từng ngày, nên dẫu cuộc sống khá vất vả mà vẫn thấy êm đềm hạnh phúc. Và nhóm từ “Hấp Hôn Tôn Nữ” được chúng tôi đặt bày sáng tác ra từ dạo ấy.

Sang Mỹ, khái niệm “hấp hôn” hầu như không còn nghe thấy. Có lẽ văn hóa phương Tây năng động nên làm biếng “hấp” hay “hâm” mà thường thích ăn fastfood hay đồ mới nên tại Mỹ, vào những năm giữa thập niên 60, cứ trung bình 3 trong 7 đứa trẻ tuổi “teen” là con của những cặp vợ chồng ly dị. Ly dị trở thành một phong trào nóng bỏng. Nhưng khuynh hướng ly dị, ly thân ấy có khuynh hướng nguội dần cho đến vài thập niên đầu thế kỷ 21 thì chững lại và đời sống hôn nhân có vẻ lâu dài hơn thời “Baby Boomer”!

Người ta đã bày ra lễ kỷ niệm thời gian hôn nhân từ 1 năm cho đến 75 năm. Mỗi “tuổi hôn nhân” như thế có một vật tượng trưng và loài hoa tương ứng để tặng nhau. Chẳng hạn như năm đầu là giấy (paper) thì có hoa carnation/pansies, năm thứ hai là vải (fabric) thì có hoa cosmos, năm thứ ba là da (leather) thì có hoa fuchsias… cho đến bạc, vàng, kim cương là rắn chắc nhất. Nếu bạn muốn biết cuộc tình mình được tượng trưng bằng vật thể loại nào và thích hợp với loài hoa gì thì bấm tạm vào đây:

http://www.onlineflowers.com.au/v/wedding-anniversary-meanings  

Đã ba mươi lăm năm từ ngày ở Mỹ, tôi chỉ được nghe vài lần từ ngữ “hấp hôn”. Có lẽ bởi vì thế giới tâm lý hôn nhân xông xáo nhưng đổi thay quá nhanh của người Mỹ đã… chật chỗ cho một không gian làm ấm lại tình yêu. Có những cặp tình nhân hay vợ chồng tưởng như xa nhau nửa bước sẽ nghẹt thở nên đứng bất cứ nơi nào cũng âu yếm vuốt ve, hôn nhau đắm đuối nhưng chỉ qua vài cuộc cãi nhau ngay sau đó là đã vội vàng ly dị, ly thân. Hai mươì năm làm ngành tâm lý trị liệu (Psychotherapy) thuộc lãnh vực Bảo vệ Trẻ em và Gia đình trong xã hội phương Tây tôi mới cảm thấy trân trọng và thương quý tình cảm thiêng liêng, đôn hậu và nhân bản – chữ trung thì để phần cha, chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình – của một thời đã khuất dáng trên quê hương Việt Nam.

Hy vọng, đôi dòng giải thích trên đây có thể giúp làm cho nhà tôi và người bạn cùng học ở trường Đồng Khánh Thành Nội một thời thấy rõ hơn ý nghĩa tình cảm vui đùa nhưng không kém phần thú vị khi ứng dụng khái niệm “hấp hôn” cho đúng cảnh, đúng người. Nhất là đối với người phụ nữ Huế còn ở trong nước hay bất cứ nơi nào trên thế giới.


*

* *


Sau cái “mở ngoặc” hơi dài, giờ tôi sẽ tiếp theo và hết phần ký sự cuộc vui ngày hội ngộ của đại gia đình Nữ trung học Thành Nội Huế nhân ngày sinh nhật thượng thọ của cô hiệu trưởng.



blank

Cô giáo Hiệu trưởng và học trò cũ                                Ảnh: Ngô Đức Chiến - Huỳnh Trang



Nói đến Huế, cái nhìn đầu tiên là vẻ đẹp của người con gái Huế. Nhưng cái đẹp bằng xương bằng thịt còn được tô điểm thêm bằng nét duyên từ nguồn âm vang tơ vương qua cái tên kiều mỵ, đẹp một cách Liêu Trai. Nhà văn Dương Như Nguyện đã viết:

“Bà ngoại tôi pháp danh là Tĩnh Tâm. Tên thật của bà là Hương Quế. Xứ Huế đã đặt cho đàn bà những cái tên đẹp lạ lùng: Dạ Khê, Tiểu Bích, Tú Thiềm, Phiến Tuyết, vân vân.”  

Có lẽ trong tương lai, xin gợi ý một chuẩn tiến sĩ văn khoa nào đó của đại học Huế thử trình bày một luận án tiến sĩ (doctoral dissertation) về đề tài, đại khái như: “Khảo luận về nét đẹp và cách đặt tên con gái của những gia đình nho phong xứ Huế” chẳng hạn. Có lẽ nên bắt đầu bằng cái tên khai phá tiền phong rất đẹp là Huyền Trân Công Chúa. Như ngày xưa, gia đình Uyên Bác đã đặt tên con gái theo bộ Mộc: Tố Cần, Lục Hà, Phương Thảo, Liên Như, Bạch Lan, Thúy Vy… rất nổi tiếng một thời ở Huế. Đó cũng là khuynh hướng nho phong gia thế rất được trân trọng của một thời vang bóng.

Trong những tên phụ nữ đẹp và độc đáo nhất ở Huế mà Dương Như Nguyện nhắc đến ở trên có một nhân vật mà tôi vừa đề cập là Tiểu Bích: Tôn Nữ Tiểu Bích. Cô là cô giáo của nhà tôi đúng 50 năm về trước, khi cô là hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Thành Nội hay còn gọi là Đồng Khánh Thành Nội để phân biệt bên tê là “Đồng Khánh Quốc Học”!

Huế có hai ngôi trường nữ trung học nổi tiếng: Nữ trung học Đồng Khánh có tuổi cả trăm năm (từ 1917) và nữ trung học Thành Nội trẻ trung hơn (từ 1964). Thế hệ Chiến tranh Việt Nam chúng tôi thường nhắc đến vị hiệu trưởng như là một phần tâm hồn và khí thế của nhà trường. Đặc biệt rằng, nếu cô hiệu trưởng là một giai nhân rất Huế với dáng vẻ thanh tú, tên gọi mỹ miều, phong thái trang nhã thì “tiếng đồn ba phao”. Nghĩa là giới học trò còn quan tâm và nhắc nhở nhiều hơn là ông tỉnh trưởng Thừa Thiên, thị trưởng thành phố Huế nữa. Hình ảnh những cô hiệu trưởng Đồng Khánh bên tê bến đò Thừa Phủ như Tịnh Nhơn, Giáng Châu, Tường Loan, Bích Đào… đã trở thành những nhân vật “nổi” trong nếp sống học đường vừa thực tế vừa mộng mơ rất phổ biến ở xứ Huế. Nhưng phía “bên ni” thì trường Đồng Khánh Thành Nội, học trò cũng tóc thề, áo trắng, nón bài thơ nhưng chỉ có một vị hiệu trưởng được biết đến từ đầu chí cuối là cô Tôn Nữ Tiểu Bích, nên vô hình chung, cô “nổi” nhiều hơn cả.


Hình như có một số phận kỳ lạ dành cho người con gái Huế là phần đông những người càng đẹp, gia thế càng quý phái, càng có tên đẹp khác người và nhất là tài năng càng phát tiết thì thường gặp số phận long đong về số phận tình duyên. Điểm lại những nữ nghệ sĩ Huế nổi tiếng trong nhiều lãnh vực nghệ thuật cổ điển và tân tiến như Hát Bội, Ca Huế, Ba Vũ, Tân nhạc, Văn chương… thì thấy rõ hiện tượng đó. Nhưng với đôi mắt thường của nhân gian thì phải chờ đến gần hết một đời sau mới dám nói lên và thấy được điều nầy. Nhưng với những bậc nghệ sĩ tài hoa như Nguyễn Du thì có vẻ như đã thấy rõ “chữ tài liền với chữ tai” níu buộc nhau như bóng với hình.blank

Nhiều bậc thức giả đi xa hơn khi đưa ra nhận định rằng, thời gian làm quan ở Huế Nguyễn Du đã thấy được : “Hương Giang nhất phiến nguyệt, kim cổ hứa đa sầu… !” (Mảnh trăng gầy guộc sông Hương. Xưa nay hứa hẹn đoạn trường lê thêblank) nên mới xây dựng được một gia tài ngôn từ thi cá trác tuyệt cho Đoạn Trường Tân Thanh từ một câu chuyện “Kiều Nhi” bình thường của Thanh Tâm Tài Nhân.

Tuy số phận Thúy Kiều đã được Thanh Tâm Tài Nhân đưa đường chỉ lối trên cái khung đại thể, nhưng những nét lãng mạn nhạy cảm và mong manh hư ảo của dòng đời mới là tinh túy Nguyễn Du. Nàng Kiều lúc liều mình quyết liệt vì hiếu, lúc thổn thức đam mê vì tình, lúc quặn thắt mênh mông trên bước đường lưu lạc, lúc ân đền oán trả khi nắm quyền thế trong tay và thái độ “tu giữa bụi trần” lúc tái hợp với tình xưa chỉ còn là kỷ niệm… sao mà thi hào Nguyễn Du đã diễn đạt tài hoa ứng hiện với số phận “tài mênh tương đố” của mỹ nhân rất Huế đến thế!

Nhưng sự ứng hiện rõ ràng nhất là hậu vận của giới mỹ nhân tài hoa xứ Huế đã được Nguyễn Du tiên đoán rằng, cuối cùng, tất cả đều được rút tên ra khỏi sổ đoạn trường để hưởng: “Còn nhiều hưởng thụ về sau. Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào”.

Càng tìm hiểu về lai lịch của người phụ nữ Huế, tôi càng có sự thâm tín rằng một “happy ending” – như người phương Tây thường dùng để chỉ cho những câu chuyện tình đầy gian nan, khổ ải được kết thúc trong hạnh phúc, đoàn viên – là phần thưởng cuối đời của những người phụ nữ Huế đẹp đẽ tài hoa nhưng gặp duyên tan, phận mỏng của khách hồng nhan.

Những người đẹp xứ Huế đang hạnh phúc thì yên tâm với “còn nhiều hưởng thụ về sau”. Nhưng ai còn một chút long đong thì càng vững tâm lắng lòng thắp sáng niềm vui cho một hướng mong cầu“Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồì dào.”

Huế bên tê, Huế bên ni, Huế khắp mọi miền cũng chỉ mong có được một cuộc đời nhân hậu. [*]


Sacramento. Lập Thu 2017

Trần Kiêm Đoàn  

 

     



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.