Hôm nay,  

Người Gìn Giữ Quá Khứ

11/21/201713:26:00(View: 6365)

Tu tập có muôn vạn pháp môn, chọn đúng pháp môn của mình cần can đảm vượt qua những khó khăn. (NVS)


1.


‘Bình đã đậy nắp, đổ nước hoài cũng không đầy. Tính chất nóng lạnh của nước, mùi vị của trà trong đó cũng không thay đổi được!’

Vị sư trung niên mặc áo dà, đầu cạo trọc sát, một chút tóc vừa mới lú lú ra trên đỉnh đầu hơi dài hơn những chỗ khác chút xíu, ý chừng được dưỡng theo ý của chủ nhơn, đẩy cửa tăng phòng thiệt nhẹ nhàng, nói với chú Tuấn trong khi bước qua ngạch cửa. Nét mặt sư thanh thản, khác với nội dung câu nói, khiến chú để tâm hơn tới ý nghĩa câu nói và chú ý đến quyển sách cũ kỹ, mỏng tanh mà sư đương cầm trên tay.

Tuấn liếc nhìn cái tựa: Bồ Tát Giới Pháp Diễn Âm. Chú nói nho nhỏ với mình: Sách Nôm, một trong số kinh rất hiếm hoi do người Việt Nam viết và khắc in cuối thế kỷ 19. Chuyện Đức Phật sai Bồ Tát A Nan Đà hóa độ một thái tử nọ đắm mê sắc dục. Thái tử chỉ tu hành một ngày trước khi chết thôi mà vẫn được độ sanh vào miền Cực Lạc.

Mình đã bị sách mê hoặc suốt đời, sư Quán Thông đây còn bị mê hoặc hơn mình. Chú Tuấn nghĩ thiệt mau. Rồi không từ chối cái vẫy tay mời của chủ nhơn tăng phòng chú bước theo qua khỏi ngạch cửa. Sư dặn trong khi vói tay bật nút mở đèn.

‘Xin kéo cửa lại giùm.’ Chủ nhơn thêm cho nhẹ hơn câu sai khiến của mình: ‘Để cho căn phòng ấm cúng vậy mà.’

Chú đưa mắt chung quanh. Bốn tủ kiếng dựa vách đầy sách. Sách cũ xưa Nôm, Hán, sách kinh kệ khắc bản đầu thế kỷ trước, tất cả đều ngăn nắp, ngay ngắn. Chủ phòng mời trà. Cử chỉ chuyên trà của chủ thiệt đĩnh đạc. Trong khi trịnh trọng đẩy chén trà ra trước mặt khách, sư nói chậm rãi:

‘Nói với chú như vậy vì tôi được sư phụ trụ trì khuyên dạy nhiều lần nhưng vẫn chưa bỏ được tánh mê sách, vẫn dùng nhiều thời giờ cho sách vở hơn kinh kệ.’

Khách mỉm cười sau câu nói của chủ, chưa thể góp ý, chỉ đưa mắt theo sự mời gọi của những quyển sách trong tủ.

‘Đó là cái duyên, nói lý thuyết hơn đôi chút là cái nghiệp. Tôi cảm thấy đọc một trang sách mới hay vài chục trang từng được đọc đi đọc lại thú vị hơn là tụng một thời kinh. Tội lỗi của tôi nằm ở đó. Nặng lắm mà chưa biết tính sao.’

‘Như vậy trong những buổi lễ, trong thời kệ kinh thường nhựt thầy đã không chuyên chú, cái tâm viên ý mã của thầy chạy nhảy lung tung không kềm chế?’

‘Cũng không hẳn như vậy.’ Thầy Quán Thông nhẹ nhàng vừa xác định vừa phủ nhận. ‘Chỉ nghĩ về những quyển sách mới vừa trao đổi hay mới thủ đắc, chỉ nghĩ đến những đoạn văn hay những chữ Nôm quá mắc mình vừa mới khám phá cách đọc, những ngữ nghĩa mình mới suy nghiệm, từ đó khám phá ra những ngữ ý mới mà người xưa kèm giấu trong sách. Nói chung, cái tâm mình động vì nội dung sách chứ không vì những thứ khác, kể cả chính quyển sách. Nhiều khi dựa trên đó tôi tự bào chữa mong nhẹ bớt cái tội lỗi mình đã phạm.’

Khách trịnh trọng bưng chén trà lên, đưa cao tận miệng, không cúi đầu xuống, chỉ chu môi húp từ hớp nhỏ, khi trà gần cạn chén, khách đặt lại trên dĩa, thở dài:

‘Thầy để lòng mê sách lôi kéo quá xa. Như một cỗ xe mà người cầm cưong để cho tuấn mã chạy vào con đường cấm. Người trần như tôi thì được. Như thầy thì không. Tu hành!’

Khách cố tình nhấn mạnh hai chữ tu hành nhưng không lý giải gì thêm.

Cái cười gượng gạo điểm pha chút xấu hổ, thầy Quán Thông nhẹ nhàng:

‘Như đã nói với chú, tâm tôi như bình trà đã được đậy nắp rồi, đổ bao nhiêu thêm nữa cũng chẳng vô bình. Bỏ tánh ham quí sách vở để chuyên chú vô kinh kệ nhứt thời tôi đành cáo lỗi không làm được. Người tu hành không ngại hơi thở mình ngừng, nhưng tôi vẫn lo có điều gì thì công việc cho quyển sách lớn đời mình không hoàn thành.’ Ngừng chút xíu thầy nói thêm. ‘Và nhiệm vụ giữ gìn quá khứ không viên mãn.’

Chú Tuấn nói ngay mà không sợ bạn giận. Chú nói trong cái cười nhè nhẹ:

‘Coi chừng cái tâm vọng tưởng về danh tiếng núp đâu đó trong hình thức viết lách cống hiến cho đời.’

‘Cũng có thể là như vậy, cái tâm muốn có danh tiếng biến hóa khôn lường khiến mình không nhận chân được bản lai diện mục của nó, chỉ thấy được biến tướng của nó là lòng muốn viết và sự cố gắng viết như là một lý tưởng cao đẹp thôi. Mà sư phụ tôi thì không vui gì với những sưu tập sách vở và trang viết của đệ tử, vốn chẳng phải là kinh kệ theo đường truyền thống lâu nay.’

‘Thầy nói giữ gìn quá khứ?’

‘Vâng! Giữ gìn sách xưa là giữ gìn quá khứ nếu ta chịu đọc, suy nghiệm từ đó rồi lọc ra những điều hay đẹp để thực hành. Nếu chỉ sưu tập rồi giữ sách cho thiệt nhiều thì là chuyện khác.’

Khách đưa mắt trên một quyển sách đóng bằng giấy bản dầy trên có đặt một cây bút lông.

‘Đấy cũng là một cách giữ gìn quá khứ của tôi…. Chú biết rồi, một phần triệu triệu của phút giây trước đây là quá khứ, một phần thiệt nhỏ của phút giây sau đây là tương lai. Cái giây phút nhỏ nhít gọi là hiện tại có mà không có bởi vì nó sẽ biến mất ngay. Người đời cứ chăm chăm vào cái hiện tại ảo đó mà bỏ quên quá khứ. Tôi trân trọng nó bằng cách ghi lại những gì xảy ra bây giờ. Dĩ nhiên người đọc từ đó sẽ thấy được quá khứ.’

‘Thầy làm công việc của Tư Mã Thiên?’

Có tiếng gõ cửa rụt rè bằng những tiếng nhẹ, rời rạc. Chủ nhơn cất cao giọng nhưng âm thanh vẫn nhẹ nhàng, thân tình:

‘Cửa mở, xin mời vào.’

Một thiếu phụ đẩy cửa bước vô. ‘Con chào thầy, cháu chào Bác!’

Chủ nhân tăng phòng giới thiệu:

‘Nguyên Tịnh, chuyên viên Hán Nôm, người rất thích tìm hiểu về những vấn đề cơ bản của Phật đạo.’

Hai người khách chào nhau.

Một áng mây vẩn đục bay qua trong trí chú Tuấn. Người đẹp thanh mảnh, duyên dáng như vậy đến liêu của thầy, chuyện nầy xốn mắt quá, chú Tuấn trầm ngâm ngó người nầy, đảo mắt sang người kia xong rồi ngước nhìn lên bức tượng Bồ Đề Đạt Ma quảy dép sang sông. Người thiếu phụ ý chừng không quan ngại cái nhìn và những diễn biến trong tâm của chú, cứ thảo luận với chủ nhân tăng phòng về chữ tâm mê, về mấy từ khó hiểu trong các hội 5, 6 của bài phú Cư Trần Lạc Đạo.

Chú mơ mơ màng màng nghe như tiếng thiếu phụ:

‘Tâm mê trần gian coi mọi sự trên đời là thật. Thiệt ra mọi vật trên đời là ảo, chỉ hiện diện một thời gian rồi mất, tan biến vào cõi vĩnh hằng… cũng chẳng có nam nữ, chỉ có linh hồn và tục thân, tục thân hiện ra dưới hình thức nầy kia. Người mạnh kẻ yếu, người kẹp kẻ xấu, người nam kẻ nữ …’

Chú bừng tỉnh khi tiếng giảng và tiếng hỏi ngừng khá lâu. Chú mở mắt thấy cả hai đương nhìn mình ái ngại. Chú hơi sượng sùng, trở bộ ngồi, tự mình lấy lại chút bình tĩnh bằng cách hớp hớp những hớp nước bự trong tách…

‘Chú coi bộ hơi mệt, nên nghỉ ngơi. Mười năm kia ai bị cũng dễ mất sức, bịnh hoạn…. Mấy quyển kinh sách chú hỏi mượn đã được để sẵn trên bàn đằng đó. Cứ yên tâm cầm về xem, đừng ngại. Sách là để đọc, không phải để trưng bày hay làm của.’

Chú Tuấn liếc nhìn vẻ mặt thanh thoát, đẹp đẽ và hai bàn tay thon thả của người thiếu phụ đang chắp trước ngực…

Hình như cái xốn xang trong mắt đời của chú vẫn còn quanh quất, chưa chịu tan biến…..

2.

Tám tháng sau chú Tuấn lại đạp xe đến chùa. Tăng phòng cũ của vị sư bạn đã được giao cho sư khác. Thầy Quán Thông bây giờ dọn vô một liêu phòng nhỏ cất tạm xa xa, trước rìa nghĩa địa chùa. Thầy để tóc như người cư sĩ tại gia. Áo nâu sòng nhưng không phải là áo tràng của người xuất thế. Thầy mời chú vào thảo liêu với cái mỉn cười.

‘Xin mời vào! Xưa Khổng Minh thanh thản ở mao lư, nay tôi ngự thảo liêu thì cũng như nhau thôi.’

Thầy quay lui, ngó ra ngoài nội, cũng vẫn là câu biểu nhờ nhưng lần nầy nghịch lại:

‘Thôi chú cứ đề cửa mở cũng được. Ta hưởng chút khí trời buổi xế chiều.’

Sách vở nhiều hơn và bề bộn hơn. Nhiều quyển mở ra để trên bàn với những tờ giấy nhỏ ghi chú chằng chịt. Nhiều quyển tự điển nầy nọ dầy cộm mở ra có cây viết đặt vào để làm dấu.

Chủ nhân mở đầu:

‘Nay tôi chỉ còn thuần là một phật tử, một cư sĩ tại gia. Sư phụ trụ trì không khuyên tôi hoàn tục, cũng chẳng muốn tôi hoàn tục nhưng người nói tâm tôi đầy sách vở của văn chương chữ nghĩa, tôi lại cứ ghi ghi chép chép nên tâm không có chỗ cho kinh sách nữa, sư phụ không nói tâm tôi như cái bình đầy đậy nắp, nhưng đại khái tương tợ như thế… Tôi hiểu nghiệp mình và nửa năm trước đã xin thầy cho được sống và tu theo lối của mình. Tôi dịch kinh viết bằng chữ Nôm của các thầy mấy thế kỷ trước, tôi nghiền ngẫm những bài phú của vua Trần, những bài thơ của các thiền sư đời Lý. Tôi xa rời kinh Hán tự, Phạn ngữ….’

Ngước nhìn bức tượng Bồ Đề Lạt Ma, chú Tuấn nhớ tới người thiếu phụ trước đây.

‘Thưa huynh, người tín nữ tha thiết đến chuyện tâm đạo tâm mê tôi hạnh ngộ lần trước bây giờ vẫn khỏe?’

Huynh Quán Thông sửa lại thế ngồi, đưa tay rót trà cho khách, ngó mông ra cửa. Ngoài nội bao la lửng lơ vài ba cụm mây trắng trên nền trời trong xanh. Gió làm lao xao cành lá những tàng cây trước mặt.

‘Tất cả các pháp đều vô thường. Biến đổi không cùng. Đời người như những đám mây kia. Như những cơn gió nọ.’

Chú Tuấn nghe như có luồng điện cao thế chạy xẹt từ chơn cẳng lên tuốt trên đỉnh đầu mình. Chú tròn xoe mắt ngó người đối diện nhưng không dám hỏi. Người cư sĩ đóng lại một cuốn sách đương để lật ra trên bàn, đem xếp chung vô với những cuốn để đứng trong tủ kiếng, đẩy đẩy nhẹ những quyển sách khác lại cho ngay ngắn, nói tiếp:

‘Nguyên Tịnh là người chăm chút trau dồi cái tâm của mình, nhưng cũng không lơ là chi mấy với tục thân. Nguyên Tịnh khám bác sĩ riêng hằng tháng suốt mấy năm qua vì bác sĩ là người bà con. Vậy mà 7 tháng trước nghe tin mình bị bướu não. Được khuyên mổ óc lấy khối u ra, Nguyên Tịnh từ chối với lý do nếu phải tới lúc hết nghiệp, phải để lại tục thân, thì chữa chạy cũng vô ích thôi. Đời sống vốn vô thường, cứ để cái vô thường hành sử quyền của nó.’

Lần nữa huynh Quán Thông ngó lên bầu trời. Một vài đám mây khi nãy đã tan, giờ có thêm vài đám mới. Huynh nhớ đến gương mặt của thiếu phụ thông minh có tinh thần tìm học, đã coi nhẹ một trong những nỗi khổ của nhân sinh. Huynh nhắc thêm:

‘Nguyên Tịnh xác quyết với tôi rằng con người mang tiếng khóc ban đầu mà ra, không phải vì đau đớn khổ sở mà là phản ứng của cơ thể để có thêm không khí khi mới thay đổi môi trường bên trong cơ thể mẹ sang môi trường bên ngoài đời. Và Nguyên Tịnh sẽ chứng minh rằng cái được gọi là khổ chót đời của nhơn sinh ai nấy đều sợ xem ra cũng không phải là cái khổ. Nó là một giai đoạn của quá trình. Tới giai đoạn nào thì ta chấp nhận giai đoạn đó. Giai đoạn chót là một phút giây cực kỳ ngắn, chủ thể chẳng kịp cảm nhận, vậy thì nó vô tính, sướng khổ hay gì gì thì là do người ngoài gán cho nó mà thôi. Không phải cảm thức của chính chủ thể.

Chú Tuấn gật gù. Đi ngược lại lời dạy căn bản lưu truyền mấy ngàn năm nay của đấng từ phụ sáng suốt ngàn đời không phải điều chú có thể chấp nhận được liền. Chú rụt rè ngó người đối thoại, nói cho có, vô thưởng vô phạt:

‘Nguyên Tịnh thông minh và can đảm. Không phải dễ dàng có được một người như vậy trên đời nầy.’

Ngoài kia có tiếng ồn ào cãi cọ của dân chúng và những người gọi là giữ gìn trật tự khu phố. ‘Mấy vụ kiện cáo khiếu nại xảy ra hà rầm mấy năm nay mà có ai giải quyết được đâu, miếng đất phía sau của Chùa cũng bị hăm he giải tỏa, sư trụ trì cứ chấp tay Mô Phật hoài chớ biết tính sao bây giờ!’

Huynh Quán Thông nói rồi đưa tay lên nhổ những cọng râu vừa mới nhú nhú ra ở dưới cằm. Hai người ngó vô mặt nhau xong cùng liếc mắt ra đường. Không khí bỗng nhiên nặng nề như đông đặc làm cho người ta phải è ạch thở.

Huynh kéo tủ, mở một cuốn sách ghi chú dang dở của mình ra, chấm chấm đầu bút lông vô nghiên mực Tàu, cầm ngang bút rồi nhè nhẹ gạt gạt đầu bút vô nghiên để mực không đọng trên ngọn, viết tiếp theo trang viết dang dở:

‘Tháng Mười năm nay dân oan thường bị đuổi dạt tan tác, một số nhỏ thoát chạy ngang chùa. Người tín nữ thường đem nước và xôi cúng dường cho họ đã siêu hóa hơn năm tháng nay không còn cúng dường cho họ nữa…’

Huynh ngừng viết hỏi người đối diện:

‘Mà chú Tuấn nầy, chữ dạt ngày nay viết Nôm sao cho đúng nhỉ? Hài thanh với dật, diệt, đạt hay cát?’

Nguyễn Văn Sâm

(Victorville, CA, 20 Dec.2013)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.