Hôm nay,  

Đoàn Văn Toại và sinh viên Sài Gòn một thời

01/12/201716:44:00(Xem: 9190)
Đoàn Văn Toại và sinh viên Sài Gòn một thời
 
Bùi Văn Phú

Đoàn Văn Toại, tác giả của ba quyển sách, hiệu trưởng hai đại học tư, người hoạt động nhân quyền, một lãnh tụ sinh viên, người gây sôi nổi, ồn ào trong dư luận ở Việt Nam, Pháp, Hoa Kỳ trong hai thập niên 1970 và 1980 đã qua đời tại California vào trung tuần tháng 11 vừa qua, hưởng thọ 72 tuổi.


Là phó chủ tịch Tổng hội Sinh viên Đại học Sài Gòn, có khuynh hướng thân cộng, năm 1971 ông đã đi Mỹ, đến các đại học trong đó có Đại học Berkeley và Stanford để kêu gọi sinh viên ủng hộ quyền dân tộc tự quyết của nhân dân miền Nam bằng cách đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam, vì thế ông bị chính quyền Sài Gòn bắt giam nhiều lần.

blank

H01: Đoàn Văn Toại, bên trái, và bà Laola Hironaka của Tổ chức Ân xá Quốc tế trong một buổi gặp gỡ ở Berkeley năm 1980 (Ảnh: Bùi Văn Phú)


Hơn một tháng sau ngày 30/4/1975 ông lại phải vào tù cộng sản. Bị bắt khi đang dự buổi hòa nhạc ở nhà hát thành phố, mà bộ đội không đưa lí do. Ông nghĩ có thể là vì trùng tên với lãnh đạo sinh viên chống cộng Ngô Vương Toại, hay vì ông không muốn thi hành chính sách tịch thu tài sản của dân do Hà Nội đưa ra.


Dù bất cứ vì lí do gì thì ông cũng đã bị giam hai năm trong các nhà tù của cộng sản ở Thành phố Hồ Chí Minh mà không hề bị xét xử.


Được thả, Hà Nội cho ông ra đi đoàn tụ gia đình – vợ ông có quốc tịch Pháp và đã được hồi hương năm 1977 – với hy vọng ông sẽ nói tốt cho chế độ khi đó đang bị thế giới lên án vì chính sách cai trị hà khắc.


Ông đã không làm như ý lãnh đạo Hà Nội. Sau khi đến Pháp, ngày 30/5/1978 ông tổ chức họp báo và công bố “Tuyên ngôn Nhân quyền cho Việt Nam” được một số trí thức ký tên, luật sư Trần Danh San tuyên đọc trước Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn và đã bị bắt giam. Bản tuyên ngôn ông đã phải dấu ở một chỗ kín trong người khi rời Việt Nam vì sợ an ninh sân bay lục soát hành lý. Qua họp báo, ông đã phơi bày những vi phạm nhân quyền của Hà Nội trước công luận thế giới.


Cuối năm đó ông qua Mỹ cũng có họp báo, gặp gỡ nhiều dân cử Quốc hội Hoa Kỳ, đến nói chuyện tại nhiều đại học về tình trạng nhân quyền tồi tệ tại Việt Nam.


Lần trở lại Đại học Berkeley năm 1979, theo lời mời của Viện Nghiên cứ Đông Á (Institute of East Asian Studies) dưới sự điều hành của Giáo sư Robert Scalapino, ông đã gặp bà Laola Hironaka là trưởng nhóm Ân xá Quốc tế (Amnesty International - Campus Network). Qua bà Hironaka và Ginetta Sagan, ông và nhà thơ Nguyễn Hữu Hiệu gặp ca sĩ phản chiến Joan Baez và đã khiến bà tỉnh ngộ.


Biết đến những trại học tập cải tạo giam giữ hàng trăm nghìn người, những nhà tù giam văn nghệ sĩ, trí thức, lãnh đạo tôn giáo, Joan Baez đã vận động cả trăm trí thức, nghệ sĩ ký tên vào một thư ngỏ lên tiếng về hồ sơ nhân quyền của Hà Nội. Lá thư được đăng trên các báo lớn tại Hoa Kỳ cuối tháng 5/1979.

blank

H02: Tác phẩm Le Goulag Vietnamien viết về nhà tù dưới chế độ cộng sản Việt Nam


blank

H03: Tác phẩm Vietnam: A Portrait of its People at War


Mạnh mẽ chống Hà Nội, nhưng ông có cùng quan điểm với Hoàng Văn Hoan, Ủy viên Bộ Chính Trị vừa trốn sang Trung Quốc và Trương Như Tảng, cựu bộ trưởng tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam mới vượt biển đến Pháp, cùng với Thái Quang Trung là những người có khuynh hướng thân Tàu chống lại Việt Nam, vì thế ông bị nhiều người Việt hải ngoại phản đối, bị nghi ngờ là cộng sản nằm vùng, là người của CIA.


Khi đến Berkeley nói chuyện do Amnesty International tổ chức, ông nói về đời sống tù khổ cực ở Việt Nam sau 1975 mà bản thân đã trải qua trong hai năm và những trại học tập cải tạo, thực chất là nhà tù, do Hà Nội dựng nên để giam giữ không xét xử 800 nghìn cựu quân nhân, cán bộ và công chức Việt Nam Cộng hòa.


Một người tham dự hội thảo đã hỏi, đại khái là ngày xưa ông tranh đấu đòi loại bỏ chính quyền độc tài Nguyễn Văn Thiệu, để ngày nay ở Việt Nam lại có một chế độ còn độc tài và tàn ác hơn, nhìn lại ông có suy nghĩ gì? Đoàn Văn Toại trả lời vì ông là một người suy nghĩ độc lập và vì lý tưởng thì ở đâu có độc tài, áp bức ông sẽ tranh đấu. Đó là lý do tại sao ông vẫn tiếp tục hoạt động cho tự do, dân chủ, cho những người còn bị giam tù vì lý do chính trị tại Việt Nam.


Trở lại miền Đông nước Mỹ, Đoàn Văn Toại cùng với Nguyễn Hữu Hiệu thành lập Ủy ban Tranh đấu cho Tù nhân Chính trị tại Việt nam và đã xuất bản tập thơ “Tiếng vọng từ đáy vực” của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, mà khi đó danh tính của nhà thơ còn được giữ kín. Tập thơ là một bằng chứng nữa về nhà tù của Hà Nội dành cho những người phản kháng chế độ từ mấy chục năm qua.


Những hoạt động của Đoàn Văn Toại được chính giới Mỹ chú ý và ủng hộ. Ông viết những bài báo về hiện tình Việt Nam đăng trên Wall Street Journal, New York Times và làm việc nghiên cứu tại Fletcher School of Law and Diplomacy, Đại học Tuft ở Boston; Institute of East Asian Studies, Đại học Berkeley ở California.


Ông đã cho ra đời 3 tác phẩm về Việt Nam, viết chung với David Chanoff, là: “The Vietnamese Goulag”, nguyên bản tiếng Pháp “Le goulag Vietnamien” xuất bản năm 1979; “Vietnam : A Portrait of its People at War” và “Portrait of the Enemy”.


Những năm cuối thập niên 1980, đầu 1990, khi thế giới có những thay đổi và khối cộng sản đang tan rã, Đoàn Văn Toại thành lập Institute for Democracy in Vietnam – Viện Vận động Dân chủ cho Việt Nam – qua đó ông thúc đẩy Washington thiết lập quan hệ ngoại giao với Hà Nội và công khai lên tiếng cổ võ cho quan điểm của mình vì tin rằng giúp Việt Nam phát triển kinh tế sẽ đưa đến thay đổi chính trị.


Ông cũng lên tiếng chỉ trích Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam của Tướng Hoàng Cơ Minh, lúc đó đang quyên tiền cho phong trào kháng chiến mà ông cho là lừa gạt.


Tháng 8/1989 ông bị kẻ lạ mặt bắn ba phát làm bể hàm, lủng ruột nhưng ông chỉ bị thương nặng và thoát chết. Thủ phạm tẩu thoát. Dư luận đồn đoán là Mặt trận của Tướng Hoàng Cơ Minh đứng sau.


Sau vụ ám sát bởi những người cùng mầu da sống trên đất Mỹ, ông không còn coi Hoa Kỳ là nơi an toàn nên đã về Việt Nam làm ăn và sống trong im lặng nhiều năm.


Năm 2015 khi đài truyền hình PBS chiếu phim “Terror in Little Saigon”, ông có trả lời phỏng vấn, nhưng không muốn xuất hiện trước máy thu hình, và nói rằng ông quyết định nói về vụ ám sát, vì tuổi đã 70 không còn phải lo sợ. Tuy nhiên ông không tin có ngày ông sẽ thấy được người đã bắn ông ra trước công lý.


Ngày nay tên ông cũng đã đổi để ít gây chú ý. Trên mạng xã hội Facebook có ghi Prof. Patrick T Doan, Ph. D kèm với chức danh Founder, Bristol University, California và Emeritus Chancellor, California Southern University.


Những đại học tư này đã cấp bằng tốt nghiệp cho một số người Việt và gần đây tạo dư luận trong nước khi nhắc đến bằng cấp của các quan chức cũng như về phẩm chất và giáo trình.


Hơn 20 năm trước Đoàn Văn Toại có nói với tôi ông từng đề nghị một vài trường ở Mỹ cấp bằng tiến sĩ danh dự cho Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Hun Sen của Campuchia. Nghe thấy lạ. Nhưng ông là người hay có những ý tưởng kỳ lạ.


Năm 1991, nhân danh giám đốc Institute for Democracy in Vietnam, ông đề nghị Hoa Kỳ thuê cảng Cam Ranh của Việt Nam, khi Philippines không còn muốn cho Mỹ thuê Subic Bay, để giúp Việt Nam thoát nghèo và sẽ đưa đến thay đổi chế độ mang bản chất Stalin sang tự do. Ông cũng từng đưa ra đề nghị Hoa Kỳ trả 5 nghìn đôla cho mỗi H.O. để họ ở lại Việt Nam sinh sống thay vì qua Mỹ định cư.


Hôm tháng Bảy vừa qua, trao đổi thông tin với tôi, ông viết: “Thời gian trôi qua nhanh. Hồi nào anh em mình trẻ trung nhiệt huyết. Bây giờ 60 hay 70 rồi mà chuyện Việt Nam vẫn tồi tệ hơn xưa… Hôm nào về lại Calif nhất định sẽ lên gặp.”


Ông vừa về lại California, có mấy bạn đưa ảnh chụp chung với ông trước một khu thương mại ở Quận Cam, trông ông gầy hẳn đi. Chưa kịp gửi lời nhắn gặp lại nhau thì nghe tin ông qua đời.


Hơn phần tư thế kỷ trước, bị bắn ba phát đạn mà ông không chết. Năm 2013 tim ngừng đập 12 giây và ông được cấp cứu. Hai tuần trước bất ngờ tim ông ngừng đập luôn khiến bạn bè thân quen ngỡ ngàng.


Sinh năm 1945 tại Vĩnh Long, mất năm 2017 tại California. Qua bên kia thế giới nếu có ai nhắc chuyện Việt Nam chắc ông cũng vẫn gây xôn sao với những ý tưởng kỳ lạ. Chúc ông yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng.


© 2017 Buivanphu



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.