Hôm nay,  

Cây Thánh Giá

14/12/201710:30:00(Xem: 7189)

Cây Thánh Giá

 
Jurgis Jankus 
Nguyễn Văn Sâm chuyển ngữ

 · 

Ai, ba mươi năm trước đây, nếu từng đi vào con đường nhỏ từ Girkalnis đến Simkaiciai, chắc hẳn sẽ còn nhớ một cây thánh giá gần rìa làng Pakalniskiai, chỗ triền dốc của ngọn đồi có một cái lâu đài, nơi mà con đường quẹo vào một cánh đồng cỏ ướt. Cây thánh giá nầy đặc biệt, khác với tất cả những cây thánh giá khác rải rác khắp các nẻo đường vùng này. Thánh giá làm bằng hai khúc cây sồi dầy, chắc chắn, đen bóng theo thời gian, nắng mưa gió bão để lại chi chít vết rạn nứt cùng những đám rêu móc xám đậm đóng trên nhiều chỗ. Đầu và hai tay thánh giá tận cùng bằng những nắm tròn thật to, đã bị thời gian bào mòn. Đây là những thứ có lẽ mới được thêm vô sau này vì làm bằng loại cây tạp. Chắc một nghệ nhân nào đó muốn thánh giá đẹp hơn nên đã dùng tài nghệ mình đẽo gắn thêm vào.

Ta có thể đi qua ngang qua chính thánh giá này mà không chú ý vì thánh giá tương tợ quá nhiều, rải rác trên khắp ngả đường của Lithuania. Nhưng chính nét mặt của Đức Chúa mới gợi sự chú ý của chúng ta. Khó ai có thể đi qua đó mà không ngừng lại hay không quay đầu ngoái lại nhìn nhiều lần. Tượng Chúa rất đặc biệt, cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu nỗi tại sao tượng nầy lại không nổi tiếng trên hoàn vũ, trừ phi thượng đế, bằng chính sự khiêm cung của mình, muốn như vậy. Thân hình tượng bằng cỡ với người bình thường, được khắc từ một khúc cây nguyên khối. Ngay cả hai cánh tay nữa, cũng không phải được khắc rời rồi thêm vào. Tứ chi đã bị gió bào mòn, run rẩy trong sự mệt lã. Cái đầu hơi chồm tới phía trước và nghẻo về một bên, chìm đắm trong những ý nghĩ lo âu và đau đớn… và có thể luôn cả những lo âu của ngày mai ngày mốt nữa. Cái vương miện bằng cây gai thường thấy trên đầu chúa đã mất. Cái mái che thường thường bảo vệ ngài khỏi bị mưa, tuyết cũng không còn. Chỉ có, do ai đó đặt trên cái đầu bi thảm này một vòng hoa tập tàng như hoa bắp, hoa chuông xanh, hoa vàng mao lương, cùng những thứ hoa dại khác. Chuyện này một đứa trẻ cao cao cũng có thể làm được vì thánh giá rất thấp, những ngón chân của bức tượng gần chạm mặt đất. Hình như chân thánh giá đã bị hư hoại nhiều phen, mỗi khi được thay, lại ngắn hơn lần trước. Nếu vậy thì nó phải cũ lắm bởi vì loại cây sồi rất lâu mục. Nhưng tại sao thời gian lại không bào mòn nét sinh khí trên mặt bức tượng? Người ta thường đứng chờ đôi mí bức tượng bi thảm nầy thình lình mở ra, mắt sẽ nhìn thẳng vào anh, đôi môi sẽ hé mở, anh sẽ nghe tiếng nói mà cả thế giới từ lâu đợi chờ, những tiếng nói mà các nhà thần học và thi sĩ hằng tìm tòi bằng muôn ngàn sách vở. Nhưng những lời ấy đến với anh, tự nhiên như bông hoa nở mỗi mùa.

“Tôi biết, cậu đang cầu nguyện. Hay là…. chỉ ngắm nhìn mà thôi?” tiếng một bà lão kéo tôi ra khỏi giấc trầm tưởng. Tôi nhìn lại. Nãy giờ bị cuốn hút vào bức tượng, tôi không để ý bà ta lụm cụm đến đây lúc nào. Đó là một bà lão quá già, lưng còng theo năm tháng, gương mặt chằng chịt nét nhăn nheo nhưng đôi mắt thì sinh động và trẻ trung. Thời gian với những ngón tay thần sầu đã không chạm được đôi mắt đó, giống như là đã không thể chạm được gương mặt của Đức Chúa trên cây thánh giá kia. Một tay bà ôm rổ đầy lá củ cải đường, tay kia cầm vài củ cà rốt mới nhổ.

“Đẹp quá,” tôi nói, mắt hướng về Đức Chúa.

“Vâng, đẹp thật — và rất quý giá. Nhưng sẽ không ở đây lâu đâu.” người đàn bà thở dài, dùng bàn tay quẹt ngang mày.

“Tại sao vậy? Coi còn có thể đứng đây lâu lắm mà.”

“Có thể đứng, nhưng không đứng. Chỉ trong vòng một hai năm thôi. Ông coi, chân bức tượng gần chạm mặt đất rồi kìa. Khi chân đã chạm rồi thì Đức Chúa sẽ vác thánh giá đi chỗ khác. Một sáng nào đó chúng ta thức giấc sẽ không thấy người ở đây nữa.”

Tôi muốn cãi lại, nhưng biết rằng không nên trực tiếp nói ngược lại những niềm tin ở địa phương. Tôi làm thinh một chập, mắt vẫn ngắm nhìn gương mặt Chúa và đặc biệt là đôi môi của người, lúc này đây hình như đang mấp máy muốn nói. Tôi phát biểu: “Một công trình tuyệt mỹ, vô cùng tuyệt mỹ. Ai khắc vậy? Nếu ông ta còn sống, tôi rất hân hạnh được gặp một điêu khắc gia kỳ tài như vậy.”

“Thưa ông, không ai khắc được thánh giá này. Tôi sống từ nhỏ tới giờ ở đây, thấy thánh giá không thay đổi chút nào. Không khác một chút xíu nào. Khi tôi chỉ cao bằng này,” bà ra dấu bằng tay một khoảng cách với mặt đất, “tôi đã kết những vòng hoa cho Ngài. Chỉ có điều là lúc đó tôi không thể choàng lên được. Vói không tới. Ngay cả người lớn cũng vói không tới. Họ phải tìm cái gì đó để đứng lên. Và khi muốn hôn chân Ngài, tôi phải nhờ ai đó ẳm lên, nhưng bây giờ thì ngay cả một đứa trẻ nhỏ nhất cũng có thể vói tới dễ dàng. Mắt tội lỗi của người đời không thể nhận ra… nhưng thánh giá càng ngày càng lún sâu xuống….”

“Có thể có luồng nước ngầm ở dưới đó,” tôi bắt đầu giải thích, “thanh niên, đàn ông ở đây phải phụ nhau dời đi chỗ khác mới phải.” Trong thâm tâm tôi nghĩ vật quý giá như vậy phải được đặt trong lồng kính ở bảo tàng viện, nhưng tôi không nói như thế, sợ rằng chống lại bà ta, khiến cho bà sẽ làm thinh không nói thêm. Ngay cả ý kiến dời đi của tôi cũng làm cho bà lắc đầu.

“Ông ơi, đã không ai tạo nên thì cũng không ai di chuyển đi!” bà phát ngôn một cách chắc nịch.

“Không ai tạo nên!” Tôi ngạc nhiên.

“Dĩ nhiên là không. Ngài tự mình đến đây và chọn nơi này; chỉ là do chúng ta, cứ chất chồng tất cả các chuyện lộn xộn, lo lắng, và những hành vi quỷ quái của chúng ta lên đầu Ngài cho nên Ngài mới lún dần lún dần…”

Bà ngừng nói. Tôi cũng thế. Cả hai chúng tôi nhìn thẳng vào cây thánh giá. Bà chầm chậm ngồi xuống đám cỏ xanh dầy bên vệ đường. Tôi cũng ngồi xuống, kế bên bà, vẫn miên man nghĩ rằng thánh giá này cần được đem đặt vào viện bảo tàng. Nhưng tôi vẫn không nói gì. Bà bứt một ngọn cỏ mần-trầu quấn trong mấy ngón tay làm như mang nhẫn. Trên tay bà không có một cái nhẫn nào khác. Có thể bà chưa bao giờ lấy chồng hay là có thể bà ta đã cởi nhẫn ra, chùi bóng lại để vào trong hộp đồ vật sẽ được chôn theo khi bà qua đời.

“Tôi biết người trẻ và có học vấn khó hiểu được chuyện như vậy”, bà nói sau một lúc trầm ngâm, “họ phải kiểm chứng tất cả mọi việc, rồi tái-kiểm-chứng rồi phải được viết xuống trước nữa. Nhất là được viết trong sách vở. Tôi cũng đã từng đọc sách, và nhờ ơn Chúa, cho tới giờ đây tôi vẫn còn đọc sách được. Chúa cho tôi đôi mắt tốt. Tôi cũng đọc báo nữa. Càng đọc, càng thấy rằng chuyện trên đời này không thể nào viết hết tất cả vào trong sách vở! Lấy cái chuyện cây thánh giá của chúng tôi đây làm thí dụ. Không ai đem vào sách vở cả. Ai có thể đếm được hết những gì đã chất chồng lên vai và lên tim người!”

Rồi bà ngừng lại nữa. Bà đã cởi mấy cái nhẫn cỏ ra, bây giờ bà đang nhai nó. Thình lình bà mỉm cười.

“Răng cỏ tôi vẫn còn gần đủ hết. Chúa đã rất thương mến tôi. Tôi đã có một đời sống đẹp đẽ, thoải mái. Thỉnh thoảng tôi vẫn tự nhủ thầm: “Mary ơi, đời sống mầy như thế nầy đáng lẽ mầy phải làm cho Người nhiều vương miện hơn nữa! Chắc là ông đã từng đọc sách về những năm kinh hoàng của bịnh dịch?” bà ta thình lình chuyển hướng câu chuyện. “Bây giờ thì không ai nói tới chuyện ấy nữa, nhưng khi tôi còn nhỏ thì đó là câu chuyện trên cửa miệng mọi người. Dầu không sống trong thời gian bịnh dịch, họ vẫn nhớ qua lời kể của cha mẹ, ông bà. Người thì nói khi một trận gió thổi qua, tất cả mọi người đều ngã rạp xuống, ngã luôn không đứng dậy. Kẻ thì bảo có người kỵ mã áo đen cởi ngựa chạy như bay trong đêm, qua đến vùng nào, sáng hôm sau phân nửa nhân số ở đó không còn thức dậy được. Sáng hôm sau nữa thì phân nửa số còn lại cũng nằm luôn. Chỉ có người may mắn đêm đó không ở đó hay những người đang quỳ dưới thánh giá cầu nguyện lúc người kỵ mã đi qua mới không bị nguy hiểm thôi. Nhưng không chết thì họ phải lo việc tống táng người chết, săn sóc người bệnh và coi chừng gia súc trong làng.

Thời đó làng tôi rộng hơn bây giờ nhiều. Họ nói rằng trời mưa cả ngày không dứt. Khi hơi quang tạnh thì ở phía tây, đằng dưới đồi, một đàn quạ đen kéo đến đậu phủ kín cây cối và rợp nóc mọi nhà. Chó rên ư ử ở chỗ ngạch cửa, xin được vào trong. Ngay cả đàn ông cũng rùng mình vì tiếng quạ kêu đinh tai nhức óc. Trời tối sớm hôm hơn thường nhựt. Sáng sớm hôm sau, đàn quạ đã đi mất tiêu nhưng con người ở đây thì bắt đầu rơi rụng như lá úa mùa thu. Chỉ có ông Darvyda Ignaca là không hề gì thôi. Chả là ngày hôm trước ông ta đi ra vùng kế cận lo chuyện ép hột gai lấy dầu ăn.

Sáng sớm hôm sau, trở về, ông thấy cả gia đình mình bị bịnh dịch. Cả những người chòm xóm chung quanh nữa. Một vài người còn có thể cựa quậy được ngày hôm đó. Nhưng tới ngày thứ ba thì chỉ còn lại trơ trụi mình ông. Họ nói nhờ ông rất mạnh khỏe. Kiểu khỏe mạnh nầy ngày nay không còn nữa bởi vì con người ta sống dễ dàng quá. Ngày xưa thì không vậy, ai ai cũng phải làm việc cật lực nên mình mẩy cứng như sắt và khỏe như trâu, gió mưa coi như không. Ignaca cũng vậy. Ban ngày ông ta đi từ nông trại nầy qua nông trại khác. Săn sóc trâu bò. Giúp đở người bịnh. Đem chôn người chết. Ông có thấy cái gò đất gần trung tâm làng đấy chăng? Trong cát chỗ đó, ông Ignaca đào lỗ, xếp người chết vô như là xếp củi. Xếp ban ngày, chiều lấp chôn không thôi ban đêm chó đào bươi lên.

Một ngày nọ, sau khi chôn tất cả người chết trong ngày, ông ta lấy làm ngạc nhiên khi thấy từ phía cánh đồng xa tiến đến một người vác trên vai một cây thánh giá thật to. Ignaca mặc dầu quá mệt mỏi rồi nhưng cũng ra hỏi người ấy có cần giúp đỡ gì không. Ông tưởng chắc đây là một người muốn trồng cây thánh giá chỗ mình nằm sau khi chết. Nhưng mặc dầu trông rất là quen thuộc, người kia lại hoàn toàn xa lạ, không phải dân trong làng. Ignaca đề nghị vác giùm cây thánh giá để trong sân nhà mình. Ông nói: “Tôi sẽ nặn sữa bò, lấy gì đó cho bác ăn, rồi thắng ngựa vô xe. Bác không thể vác thánh giá nặng như thế nầy một mình được. Ignaca để dựa thánh giá vô vách chỗ hông nhà (nơi bà nội ông thường chỉ chỗ vách tường trầy trụa ở gần cuối nhà), và để người kia ngồi kế bên nhà, lo chạy đi vắt sữa bò. Lúc sau, khi mời bánh mì và sữa tươi cho người nầy, ông ta hỏi, “Bác vác thánh giá nầy từ đâu tới vậy?” “Từ rất xa, có thể nói là từ phía đầu kia của trái đất,” người lạ mỉm cười. “Và bác vác một mình như thế à? Người ta chết nhiều quá nên không ai giúp bác hết phải không?” “Không phải vậy, chỉ vì họ còn có quá nhiều chuyện để làm mà thôi.” “Tôi có thể giúp bác, “Ignaca thành thật đề nghị, “nhưng mà không biết ai lo cho người bệnh và chôn cất người chết đây? Và cả gia súc cũng cần phải được chăm lo nữa. Tôi muốn nói là không thể cứ thả chúng chạy rong ra đồng được. Nếu đường không xa thì tôi có thể vác cho đến chập tối. Nếu đường xa thì tôi sẽ bắt kế ngựa. Bác sẽ trả xe lại sau. Bác không thể vác nặng như thế một mình được.” Người kia mỉm cười lần nữa. “Bây giờ thì không xa nữa,” ông vừa nói vừa rời ghế đứng dậy định vác thánh giá. Ông vừa yếu đuối vừa mệt mỏi đến nỗi Ignaca nhỏm dậy kêu lên: “Chờ đã, tôi không thể để bác vác một mình được. Bác khiêng đằng chân đi, tôi sẽ khiêng hai tay thánh giá!”

Ignaca nắm vô tay thánh giá, đặt lên lưng mình, cảm thấy chân mình như lún xuống cát, vai mình quằn xuống như mang vật nặng ngàn cân. Nhưng ông nghiến chặt răng, bước đi, dầu run rẩy, dầu chập choạng. “Xin Thượng Đế giúp con, “ông thều thào trong miệng. “Cố gắng đừng ngã, cố đừng chết. Chết thì ai lo việc ngày mai đây?” Họ hì hục đi ra đường rồi đi ra khỏi làng. Người lạ kia nói, “Được rồi, để tôi ở đây.” “Bộ bác muốn mang một mình à?” Ignaca hỏi qua bả vai mình. “Ta cứ đặt xuống đây đi. Tôi không muốn mang đi xa hơn. Đây là một chỗ tốt,” người lạ mặt lại cười lần nữa. “Nếu bác muốn đặt thánh giá ở đây phải chi bác nói trước để tôi mang theo một cái xuổng. Mình không thể dựng lên bằng tay không được.” “Đừng lo. Về đi. Anh cần nghỉ ngơi nữa mà.” “Mình sẽ đi về cùng. Nếu bác không thích nằm giường thì cũng có rơm trong trại. Tôi sẽ đưa cho bác thật nhiều mền,” ông ta nói. Nhưng người kia đã ngồi lên trên cây thánh giá. Đưa tay chống cằm, ngước mắt về phía Ignaca. “Cám ơn lòng từ tâm của anh,” ông nói, “nhưng tôi sẽ nghỉ ở đây. Người của Thượng Đế đặt đầu thì nơi đâu lại chẳng được? Và cũng cám ơn anh đã đỡ vớt gánh nặng cho tôi. Về đi. Ở nhà, người bệnh, người chết, và gia súc đang đợi chờ anh đó. Tôi muốn ngồi đây một chút, yên lặng suy nghĩ.” Ignaca quay lưng dợm đi, rồi ngó ngoái lại nhìn người kia đắm chìm trong mộng mơ. Sau cùng ông ta nói “Bác phải là người quanh quất đâu đây. Tôi chắc chắn rằng tôi đã từng gặp bác ở đâu đó rồi.” Người kia ngước mắt lên lần nữa, nhìn Ignaca rồi lại cười. “Có thể tôi không đến từ xa, có thể đến từ gần hơn nữa. Nhưng mà bây giờ trời tối quá rồi. Mai đến đây, mình sẽ nói chuyện thêm. Tôi sẽ đợi ở đây.”

Ignaca muốn nói điều gì hơn nữa nhưng không thể tìm ra lời nên chỉ nhún nhẹ vai, đi về. Rồi thì ông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi ghê gớm. Như mỗi bước chân là mỗi bước sau cùng của đời mình. “Có thể là cái bệnh dịch đó thấm vô mình mình rồi,” ông ta nghĩ thầm. “Nếu mình ngã xuống, sẽ không còn ai để đào lỗ chôn mình.” Nghĩ như vậy, ông lê bước đi về nhà, ngã bịch xuống ghế dài, chỉ thức dậy lúc sáng hôm sau. Ông ta thức dậy, ngạc nhiên quá đỗi: trong nhà, tất cả mọi người đều đã lành bệnh. Tất cả dân làng nữa, đều đã lành. Người chết rồi thì thôi, nhưng ai chưa chết thì đứng dậy đi đứng như chưa từng bệnh hoạn. Họ đi quanh trong nhà, săn sóc súc vật, chôn cất và khóc thương cho người chết. Họ vui mừng vì bệnh dịch đã bỏ đi nhanh chóng cũng như khi nó đến làng. Ignaca chạy đi giúp đỡ dân chúng trong làng, nói cho họ biết chỗ nào người nào đã được chôn cất. Chỉ cho đến khi nửa trưa Ignaca mới nhớ trực lại người đàn ông lạ lùng kia. Nếu ông ta đợi như đã nói thì chắc là đói lắm. Ignaca đổ đầy một bình sữa, lấy ổ bánh mì lớn, trèo lên gác thượng cắt một miếng thịt ba rọi, chạy vội vàng ra chỗ đó. Trước mặt ông ta sừng sững một thánh giá to lớn. Dựng đứng, trông nó lớn hơn cái ông ta khiêng hồi hôm nhiều. Hổ thẹn dấy lên ngập lòng Ignaca. Rõ ràng là người kia đã chờ, chờ mãi, cho đến khi tìm được cái xẻng để dựng cây thánh giá lên, dựng một mình, rồi bỏ đi bởi vì không một ai chung quanh. Khi dòm quanh quất trên đồng, hy vọng thấy được người lạ kia, Ignaca tiến gần đến cây thánh giá, ngước mắt lên nhìn và rợn người: trên cây thánh giá, chính cái người mà ngày hôm qua ông bỏ đi về vì nghe nói rằng cần được ngồi yên lặng để suy nghĩ, đang ngó ông. Ignaca buông rơi bình sữa, ổ bánh mì rời khỏi tay; ông giở mũ ra, không để ý rằng hai đầu gối mình cong xuống. “Thượng Đế ôi, chính đó là đức Chúa Jesus!” ông thì thầm. “Hôm qua Chúa đến với con. Ăn uống. Chuyện vãn. Con đã không nhận ra Chúa. Xin Chúa tha lỗi cho con.” “Hãy đứng dậy,” Đức Chúa nói một cách yên lặng và rất tự nhiên. “Bây giờ con nhận ra ta. Rất tốt! Hãy đi nói với mọi người chuyện gì xảy ra ngày hôm qua. Bảo họ mang tất cả niềm vui, nỗi buồn, chuyện lo lắng khó khăn, chuyện tội lỗi xấu xa, lòng hối hận ăn năn …. của mình đặt lên trên thánh giá nầy. Những chuyện xấu sẽ làm cho thánh giá lún xuống, chuyện tốt sẽ nâng thánh giá lên.” Đức Chúa yên lặng, và trong tiếng thở dài của Ignaca, người biến thành bức tượng tạc bằng gỗ. Qua bao năm tháng, thánh giá vẫn đứng đó, cao nghệu, sừng sững, lắm khi hình như nó rục rịch vươn lên cao. Rồi nó bắt đầu lún dần xuống. Bây giờ đây chính ông thấy đó, còn có bao nhiêu nữa đâu: và chúng ta thì cứ tiếp tục đặt gánh nặng lên đầu Người mãi. Không ai nói với tôi, nhưng trong tim tôi cảm thấy rằng…. ngay khi mà chân của Người chạm phải mặt đất, thì Người sẽ đứng lên, vác thánh giá đến một nơi khác. Chúng tôi tất cả sẽ mồ côi. Chính đáng thôi, nhưng vẫn là mồ côi.”

Với những lời nầy, bà lão đứng dậy, nhón gót để sửa lại cái vòng hoa, quỳ xuống hôn bàn chân bị đóng đinh, rồi bỏ đi.

Như bị xuất thần, trong mấy phút dài tôi nhìn khoảng cách nhỏ giữa chân Chúa và đám cỏ dưới đất, thình lình một ý tưởng lóe trong trí tôi — điều gì sẽ xảy ra nếu chuyện vừa kể không phải là chuyện thần thoại mà là chuyện thật? Điều gì xảy ra nếu Chúa đứng dậy, bỏ đi, không phải để tìm một chỗ khác, mà để rời khỏi trái đất nầy. Và điều gì sẽ xảy ra, nếu trong khi ra đi, người lấy theo điều răn rằng hãy thương người láng giềng hàng xóm, một điều mà trong hai ngàn năm nay vẫn còn lạ lẫm đối với chúng ta?

Tôi nhìn chung quanh. Giữa trưa, hơi nóng tràn ngập cánh đồng, vườn cây, nhà cửa. Không một nét nhỏ nào trên gương mặt của Chúa động đậy — Mắt của người yên tĩnh, chăm chăm nhìn vào cõi vô cùng. Không ai sửa soạn để đưa ra một câu trả lời, trừ câu đau thương vừa vang vội trong trái tim tôi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.