Hôm nay,  

Đầu năm bàn chuyện Thời Gian

01/01/201808:20:00(Xem: 5415)

Đầu năm  bàn chuyện Thời Gian
 

MƯỜNG GIANG

 

 

         Ngay từ thời thượng cổ con người đã biết xếp đặt thời khóa biểu, để cuộc sống hằng ngày sao cho phù hợp với chuyển động của mặt trời, mặt trăng và mùa màng. Hiện phần lớn các cổ thư trên thế giới đã bị thất lạc và tiêu hũy nhưng nhờ sự khai quật qua khảo cổ, ta vẫn có thể biết được cách tính ‘ Ngày mùng một tháng Giêng ‘ theo lịch Trung Hoa cổ.

 

         Đây là cách mô phỏng theo sự chuyển động của năm hành tinh trong nhóm sao Pegasus, được sắp xếp như một chuổi ngọc. Rồi khi bình minh của một ngày đầu xuân ló dạng, mặt trời và mặt trăng cũng xen vào xếp hàng trong chùm sao đó.

 

         Quan niệm trên được mọi người xem như ợ một điềm lành đầu năm, vì đây là trường hợp họa hoằn hiếm thấy chỉ xãy ra một lần trong 10.000 năm. Do đó nó được chọn làm ngày đầu năm cũng là mốc khởi đầu của âm lịch ngày nay. Năm 1985 một chuyên gia về Trung Hoa là David Pankernier tại đại học Lehigh, đã xác định được thời gian ngẫu hợp hiếm thấy của các hành tinh, diễn ra vào ngày 26/2/1953 trước tây lịch, nhằm vào thời vua Vũ nhà Hạ bên Tàu. Sau đó Kevin D Pay, một nhà thiên văn học, cũng tính được khoảnh khắc huyền thoại mà người Tàu cổ, đã chọn làm mốc tính âm lịch, đó là ngày 5/3/1953 (tr TL).

 

         Ngày nay dù phương tiện và kỷ thuật tân tiến dồi dào nhưng sự nghiên cứu về thời gian càng lúc càng thêm phức tạp, vì các ý kiến gần như chống đối lẫn nhau. Đại để ý kiến thứ nhất thì cho rằng thời gian là một đường thẳng, đối với các đơn vị tính ngày giờ năm tháng và các chuyển động không bao giờ ngừng. Còn nhóm thứ hai quan niệm thời gian là một vòng tròn, cũng có sự tuần hoàn và không bao giờ chấm dứt.

 

         Để định nghĩa chính xác về thời gian, người cổ Hy Lạp có câu chuyện ngụ ngôn về con nhân sư, hàm ý diễn đạt về sự chuyển động của thời gian có liên quan tới hành trình của đời người. Chính thánh Augustine cũng có sự nhận định rất chính xác về thời gian, khi phân biệt giữa hiện tượng chủ quan và khái niệm trừu tượng. Theo ông thì thời hiện tại có ba giai đoạn là hiện tại của quá khứ, hiện tại của hiện thực và hiện tại của tương lai.

 

         Với những người chấp nhận thời gian là đường thẳng, có cuộc sống luôn luôn tuân thủ trật tự, mọi thứ đều căn cứ vào xếp hàng gần như câu tục ngữ của ta “ trâu chậm uống nước đục “.Quan niệm này được hầu hết các nước Âu Mỹ chấp nhận, vì gần với thực tế và tự do bình đẳng, không có ai ưu tiên hơn ai khi đã xếp vào hàng.

 

         Riêng những người chấp nhận thời gian là vòng tròn, thì luôn hành động theo tính cách vòng tròn, chỉ nhắm vào mục tiêu cuối cùng, bất chấp đạo lý và dư luận chung quanh. Hạng người này không bao giờ chấp nhận thất bại nên lời hứa, uy tín là những thứ xa xí phẩm, đặc biệt họ luôn tới bàn tiệc trễ, mặc kệ sự phiền nhiễu và khó chịu của mọi người.

 

         Tóm lại quan niệm về thời gian chẳng những ảnh hưởng tới cá nhân, mà còn liên quan tới vận mệnh của quốc gia dân tộc, nhất là khi họ nắm quyền lảnh đạo đất nước. Hiện nay hầu hết các nước theo chủ nghĩa xã hội, các quốc gia chậm tiến Á Phi, các nước thứ ba.. đều thuộc nhóm chấp nhận thời gian là một vòng tròn, nên mọi hành động và cách ứng xử đều tùy tiện theo mục đích.

 

         Chí lý thay lời nhận xét của Emile Durkheim, một nhà xã hội học người Pháp “ Thời gian chính là một cấu trúc của hạ tầng xã hội, giúp cho sự hưng phế của một nền văn minh và một dân tộc trong tất cả mọi vấn đề “.Cũng từ sự đối chọi quan niệm về thời gian, đã ảnh hưởng tới các nhà thiên văn học và chiêm tinh học. Đó là lý do nãy sinh việc chọn lựa 12 con giáp làm biểu tượng cho hai thứ lịch Âm và Dương đang thịnh hành.

 

         Nay thì hầu như ai cũng biết, bao quanh bầu trời có một vòng đai gọi là “ vòng động vật Zodiac “ Tuy mặt trời là một định tinh và địa cầu luôn chuyển động vòng quanh nó nhưng trong cái ấn tượng và quan niệm của con người, thì mặt trời dường như cũng có chuyển động quanh một vòng cung biểu kiến, được các nhà thiên văn và chiêm tinh học, gọi là “ vòng Hoàng Đạo “ .Mười hai con giáp cũng xuất phát từ đấy và để phân biệt tính chất Âm-Dương, người ta lại phân biệt số ngón của con vật theo định luật ‘ chẳn dương, lẽ âm ‘.

 

+ Năm mới không đến một lần trên trái đất :

 

         Không phải mọi người đều đón mừng năm mới cùng một lúc, vào sáng ngày mùng một tháng Giêng dương lịch, dù rằng hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều dùng Tây lịch. Sỡ dĩ có sự khác biệt trên vì địa cầu trải dài nhiều kinh tuyến, vốn là đơn vị dùng để tính thời gian. Ngoài ra việc làm và sử dụng lịch luôn lệ thuộc vào quyền lực chính trị, nên mới có sự khác biệt trên.

 

         Theo nhận xét của các nhà khoa học, thì nay dù Dương lịch (lịch Grégoire) đang được dùng khắp nơi nhưng vẫn chưa đủ tác dụng và hiệu quã để có thể thay thế cac loại lịch khác đang song hành. Lý do vì lịch này mang tính chất tùy tiện và dù đã được cải tổ và tu chỉnh nhiều lần suốt mấy chục thế kỷ qua. Thế nhưng ới nay vẫn chưa được hoàn chỉnh.

 

         Theo tài liệu cho biết, thì Dương Lịch hay lịch Gregorian, xuất xứ từ lịch Roma được ban hành từ năm 750 trước Tây lịch (tr TL). Thuở đó lịch rất thô sơ, một năm chỉ có 10 tháng, 6 tháng đầu có 30 ngày, 4 tháng cuối có 31 ngày. Thời hoàng đế Numa trị vì, lịch được cải cách lần thứ nhất bằng cách thêm vào tháng 11 và 12. Theo đó, các tháng 2,4,6,7, 8,9,11 chỉ có 29 ngày. Riêng tháng 12 có 28 ngày, còn các tháng 1,3,5 và 10 có tới 31 ngày. Ngaòi ra cứ 2 năm lại có một tháng nhuần vào ngày 22. Tóm lại lịch này mỗi năm có chẳn 366 ngày.

 

         Năm 46 trước Tây lịch (tr TL), hoàng đế La Mã Cesare Julius lại cải tổ lịch lần thứ 2, dựa theo cách tính của người cổ Ai Cập.Theo đó lịch này gần giống như lịch cũ nhưng mỗi năm chỉ có 365,25 ngày.

 

         Tới khi đạo Thiên Chúa trở thành quốc giáo tại Âu Châu, thì việc phát hành lịch do tòa thánh La Mã quyết định, nên trong lịch đã xuất hiện nhiều ý niệm về tôn giáo. Năm 532 sau Tây lịch (STL), giáo hội chấp thuận đề nghị của giáo sĩ Denys le Petit, chọn năm 1 là năm sinh của chúa Jésus, mặc dù kinh Tân ước có nói Chúa ra đời vào năm 6 trướcTây lịch. Vấn đề nhầm lẫn trên sau bao chục thế kỷ, đã trở thành tập quan, nên nay không còn ai muốn thay đổi.

 

         Thật ra chính người La Mã, là dân tộc đầu tiên chọn ngày 1 tháng 1 là ngày đầu năm hay còn gọi là Tết Dương Lịch. Riêng cái tên thang Giêng (Jannuary) cũng được mượn từ tên vị thần Janus có 2 mặt : một nhìn về năm cũ, một hướng tới năm mới. Ông ta còn là vị thần giữ cửa địa ngục và thiên đàng.

 

         Năm 1582 lại phát hiện lịch tính chậm so với thời gian hiện hữu là 10 ngày, nên Giáo hoàng Grégorian đã cải cách lịch cũ, bỏ bớt 10 ngày trong năm và áp dụng luật năm nhuận 47/400 vào lịch mới. Theo tinh thần đó, thì bất cứ năm nào chia chẳn cho 4 đều là năm nhuận. Với các năm có số tận cùng là 00, nếu muốn nhuận phải chia chẳn cho 400. Từ đó lịch được phổ biến khắp thế giới, được xem như một phương tiện để giao dịch quốc tế. Nhưng với các nhà khoa họchiện nay vẫn chưa đồng ý, vì cho rằng sự xếp đặt các ngày trong tháng chỉ tùy tiện và vô lý như 28,29,30 và 31. Với chu kỳ tuần lễ cũng chạy lộm xộn trong lịch và cuối cùng là luật 97/400 tính năm nhuận cũng chưa được hoàn chỉnh, vì cứ 3000 năm lại bị sai lệch 1 ngày.

 

         Ta gọi là lịch, người Pháp là Calendrier còn Anh là Calender hay bất cứ một danh từ nào khác cũng đều có xuất xứ từ tiếng gốc Latin là Calendarium, có nghĩa là “ số tiền lời đầu tiên phải trả khi vay nợ “ . Ngay từ xa xưa nhiều nước đã có lịch, đa số đều khác biệt vì đặc điểm lịch sử và các qui luật riêng của từng nước.

 

         Lấy năm 1997 làm ví dụ, ta thấy ngày đầu năm của các quốc gia Hồi giáo như Algérie, Iraq, Kuweit, Somalie, Lybie, Nigérie. nhằm 15/4 dương lịch, nhằm ngày 19 của tháng Ragab năm 1417, là năm mà Giáo chủ Mahomed lánh nạn tại Medina. Vì người Hồi dùng âm lịch nên sai lệch so với dương lịch khoảng 11 ngày đêm. Do đó ngày đầu của năm mới có thể đến bất kỳ tháng nào của dương lịch.

 

         Người Do Thái có lịch kể từ ngày sáng lập ra thế giới và căn cứ vào năm 1997 dương lịch, thì họ đã có 5758 năm và ngày đầu năm mới nhằm vào tháng 9 dương lịch. Người Copte theo đạo Thiên Chúa sống tại Ethiopie và Ai Cập, vì tính thời gian theo lịch cổ Ai Cập nên năm 1997 lại là năm 1713 của họ. Dân đảo Pali thuộc Nam Dương có thể đón năm mới bất kỳ tháng nào của dương lịch, vì một năm của họ chỉ có 210 ngày.

 

         Người Nga lúc đầu ăn tết vào ngày 1 tháng 3 dương lịch nhưng từ thế kỷ XV mới ăn tết vào ngày 1/1 dương lịch. Anh cũng như Nga chỉ mới chấp nhận ngày đầu năm mới là 1 tháng 1 được vài thế kỷ nhưng đã bị phụ nử phản đối kịch liệt vì cho rằng nếu theo cách tính đó, đã làm cho họ già trước tuổi.Các tín đồ Chính thống giáo ở Cận đông sử dụng lịch Julieu nên ngày đầu năm là 16 tháng 1 so với lịch mới. Riêng Ấn Độ thì độc đáo hơn, mỗi tiểu bang ăn tết riêng biệt : miền bắc tháng 4, miền nam tháng 3, miền tây tháng 10, còn Népal tháng 7 hay 8.

 

         Các nước theo Phật giáo Tiểu thừa như Lào, Kampuchia, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan.. đón tết theo Phật lịch và năm của họ là 2540 (1997 dương lịch), căn cứ theo ngày viên tịch của Phật tổ Như Lai vào năm 544 trước Tây lịch (tr TL). Các nước Nhật, Đài Loan, Triều Tiên dù ăn tết theo âm lịch nhưng đều có lịch riêng. Với Đài Loan, lịch của họ bắt đầu từ năm 1911 là năm cách mạng Tân Hợi thành công lật đổ Mản Thanh, nên tính đến năm 1997 là năm dân quốc 86. Người Nhật tính lịch theo triều đại đang trị vì là hoàng đế Akihitonăm thứ 8. Nam Hàn có lịch riêng yính theo kỷ nguyên Tanqua tạo ra nước Chosoul (Cao Ly) nên đã bước vào năm 4330.

 

         Trung Hoa, Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng và Việt Nam theo âm lịch tính theo chuyển động của mặt trăng. Do đó ngày đầu năm của âm lịch, được tính theo chu kỳ nhất định trong 60 năm và căn cứ vào 10 Can, 12 Chi, thường rời vào tháng 1 hay 2 của dương lịch. Với lịch Islam dù cũng theo âm lịch nhưng năm mốc là 622. Theo lịch này mỗi năm cũng có 12 tháng, được tính đủ 30 ngày trong các tháng lẽ, 29 ngày tháng chẳn và có năm nhuận. Do trên lịch Hồi giáo mỗi năm chỉ có 354 hay 355 ngày.

 

          Ba Tư áp dụng lịch Islam từ thế kỷ thứ VII tới triều đại Pahlévi thì dùng dương lịch của họ. Năm 1976 lại thay đổi lịch, lấy năm 558 trước TL là năm Ba Tư lập quốc làm kỷ nguyên. Năm 1978 Ba Tư trở lại dùng lịch Islam như cũ.

 

         Do các trở ngại trên nên việc cải cách lịch Gregorian luôn là mối bận tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hiệp Quốc) đã thành lập tiểu ban cải cách lịch quốc tế và hàng trăm phương án được nêu ra. Rốt cục vẫn không có một ý kiến nào toàn hảo. Hiện có hai phương án đượcdư luận theo dõi và chú ý. Đó là lịch thế giới (World Calendar) do môt người Pháp tên G.Armetine đề nghị từ năm 1956. Phương pháp thứ hai là lịch quốc tế cố định (International Fixed Calendar) của Auguste Comte đề nghị từ năm 1849. Năm 1993 một người Mỹ tên Chris Carrier lại đưa ra dự án lịch Bonavian. Tại VN, giáo sư Phạm Viết Trình cũng đưa ra dự án cải cách lịch, dựa theo luật nhuận tuyệt đối 2422/10.000. Tóm lại dự án nào cũng độc đáo nhưng theo các nhà khoa học hiện đại, vẫn còn có nhiều khuyết điểm. Do đó cuộc cải cách chắc còn lâu mới thực hiện được.

 

+ 2000 hay 2001, năm nào mới là năm đầu của thiên niên kỷ ?

 

         Đây là một cuộc tranh luận sôi nổi từ lâu trên thế giới, đã được Phillipe Ciboil, giáo sư môn xã hội học người Pháp làm bảng tổng kết các cuộc tranh luận vào ngày 12-4-1997, về việc năm 2000 hay 2001, năm nào mới thật sự là năm đầu của thiên niên kỷ ?

 

         Tại Pháp từ sau cuộc cách mạng 1789, người ta đã làm một loại lịch mới gọi là lịch Cộng Hòa nhưng chỉ được sử dụng trong thời gian ngắn ngũi từ 1793-1805. Chính trong thời gian này, văn hào Victor Hugo khi noí về ngày sinh nhật của mình đã viết rằng “ Thế kỷ mới đã được 2 tuổi, nghĩa là ông công nhận thế kỷ XIX bắt đầu từ năm 1800” . Một biến cố khác cũng cực kỳ quan trọng đã xảy ra tại Pháp khi bắt đầu thế kỷ XVIII. Việc này đã làm cho nhà vua tới người dân, ai cũng xôn xao vì thế kỷ mới sẽ bắt đầu bằng năm 1700 hay 1701 ?.

 

         Theo sự nghiên cứu của các nhà xã hội và khoa học, thì nguyên nhân của các vụ tranh cải trên, bắt nguồn từ hai quan điểm tập quán và thực nghiệm. Phe tập quán được đông đảo dân chúng ủng hộ vì đây là phong trào tự phát, chấp nhận con số tròn (0), là thời điểm mà niên kế (compteur d’années) trở lại theo chu kỳ. Chính các nhà khoa học giả tưởng là động lực tạo thành con số (0) trong tâm khảm quần chúng.

 

         Trong khi đó phái thực nghiệm bao gồm các nhà toán học, khoa học, thì lấy số 1 là năm đầu của thế kỷ hay thiên niên kỷ, dù họ có sử dụng loại lịch nào chăng nữa (dương, âm, Hồi giáo, Phật giáo) kể cả lịch Cộng hòa Pháp. Theo lối lý luận này, thì mỗi thế kỷ phải kết thúc bằng con số 0 và khởi đầu bằng con số 1. Đây chính là cái vòng lẩn quẩn của con người, như câu nói thông thường của ta “ đường nào cũng về La Mã “ là vậy.

 

         Theo lối tính của nhóm trên thì thế kỷ thứ I bắt đầu bằng năm 1 và kết thúc năm 99. Thế kỷ thứ II cũng bắt đầu bằng năm 100 và kết thúc vào năm 199 để sang thế kỷ mới. Sau đó lại tiếp tục giống trên cho tới thế kỷ XX bắt đầu bằng năm 1900 và kết thúc vào năm 1999. Rốt cục phe thực nghiệm đã vô tình chấp nhận quan điểm của phe tập quán một cách tự nhiên.

 

         Đặc biệt Giáo hoàng Phao Lồ đệ 2, khi đọc thông điệp ‘ Tetio Millenio Advennience ‘ Ngài chỉ loan báo lấy năm 2000 làm thời gian mừng lễ Jubilé . Tuyêt nhiên trong bức thông điệp không hề nhắc tới năm nào là năm khởi đầu của thế kỷ XXI , dù có nói rằng năm 2000 là ngưỡng cửa để nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới..

 

         Tóm lại mọi sự trên cõi đời này đều do đám đông quyết định và cái chân lý bất biến tự ngàn xưa, dù cho trời có xập, nó vẫn là “ Vox Papouli (tiếng nói của quần chúng ) “ cũng là “ Vox Dei (quyết định của Thượng Đế) “ .

 

         Rồi thì năm 2000 tận thế cũng trôi qua từ lâu và sự trắc trở của máy điện toán (Y2K) cũng không hề có. Thế nhưng các nhà tiên tri vẫn tiếp tục đưa ra những dự báo xấu về Ngày Tận Thế của trái đất, Hiện nhân loại đã bước vào ngưởng cửa của năm 2018 vời đầy ắp lo sợ, từ khủng hoảng kinh tế tới thảm trạng của một cuộc thế chiến đang ló dạng khắp nơi. Thêm vào đó là tai họa do thiên nhiên mang tới như bảo tố, động đất, núi lửa.. cho tới các vụ rớt máy bay, đắm tàu thuyền, chết đói, dịch bệnh..

 

         Đây không phải là các lời đồn nhãm nhí hay các loại tiên tri dõm thường thấy xãy ra trước đây, mà tất cả đều là sự thật được báo chí thông tin từng giờ. Buổi trước mọi người đều tin khi thay đổi thế kỷ hay thiên niên kỷ, đều là những giây phút cuối cùng của cuộc sống. Nhưng vào thời điểm này, trước sự lộng hành của Trung Cộng, Nga Sô, Bắc Hàn, Ba Tư và bọn khủng bố.. lúc nào cũng mang chết chóc gieo rắc khắp nơi trên trái đất, trước sự bất lực của Hoa Kỳ. Điều này cho thấy ngày tận thế của nhân loại bởi bom nguyên tử, vẫn là nổi ám ảnh lớn nhất của con người hiện nay, tuy ai cũng mong sẽ chẳng bao giờ tới.

 

 

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Đầu năm 2018

MƯỜNG GIANG

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.