Hôm nay,  

Tù Côn Đảo qua các chế độ

07/01/201813:07:00(Xem: 6994)

Tù Côn Đảo qua các chế độ
 

Nguyễn Quang
 

Nói đến tù Côn Đảo là đề cập những nhục hình, sự tàn ác trong sự đọa đày con người. Theo những gì từ truyền thông quả là quái ác chứ không còn là sự ác bình thường.

Thế nhưng dù có khoa đại đến mấy lịch sử vẫn là lịch sử ‘không ai lừa dối được nhiều người mãi mãi’, với gần bốn chục tù nhân từng là lãnh chúa, trưởng các phân trại, sếp các đội tù ở Côn Đảo, mức án tù thường cả chục năm, nghĩa là những tù nhân qua nhiều triều đại: có người đã thụ án đến ba mươi hai năm với nhiều bản án chồng chất từ chế độ nầy sang chế độ khác, phần lớn họ lập công trong tù bằng cách triệt hạ người khác để lấy điểm với kẻ đương quyền, nên lúc chế độ nầy sụp đổ những kẻ bị trấn áp ngày trước, nay lên cầm quyền và thế là họ bị kêu án tiếp...

Con đường cũ cứ lập lại vì trên đất nước nầy các thế lực bao giờ cũng là các đối cực, nên kẻ lên ngựa người xuống xe là điều không tránh khỏi, nhất là đối với những kẻ gây hận thù mà vốn hận thù chỉ thêm thù hận. Tù nhân ba mươi hai năm nầy cướp ngân hàng từ năm mười tám tuổi, dưới thời Pháp thuộc, gây án mạng trong tù bị kêu án tiếp, từng là trưởng ban trật tự khét tiếng ở nhà tù Côn đảo, đàn áp tàn nhẫn dã man với các tù nhân cộng sản, nên khi những người cộng sản chiến thắng, y nhận được một cái lệnh tập trung vô thời hạn và đã mười lăm năm trôi qua trong tù dưới chế độ cộng sản... y tâm sự: bây giờ thì tôi sợ rồi, ngày trước nhiều lắm chỉ đánh đá vài cái là xong, có khi đánh trúng chỗ huyệt chết ngay, chứ không có sự trả thù dai dẳng như bây giờ.

Người tù xấu số nầy chỉ tay về phía Nhà đỏ, nơi những con người đang bị sấy khô trong các cái hộp và chết dần dần vì quá khát, quá đói cùng những cú đấm đá vô chừng vào mỗi chiều trong giờ điểm danh. Nó không như chuồng cọp còn cho ăn uống, còn bóng dáng con người, nghĩa là còn có lòng thương hại, con người dù cho ác đến mấy vẫn là con người với lòng trắc ẩn… Ông ta làm thợ hớt tóc trong trại giam, ánh mắt y luôn dáo dát, sợ hãi, đây cũng là nét chung của các tù nhân thuộc nhóm tù từ Côn Đảo được đưa về đây một trại được mang danh  Thung Lũng Tử Thần, đó là Trại A20, Xuân Phước, nên làm gì cũng cảnh giác, luôn luôn sợ các bạn tù cũng như công an theo dõi.

Và một người đồng bọn, cũng tù Côn đảo, anh ta cao to lớn, do vậy các nhu cầu cơ thể có lẽ cũng nhiều, mỗi chiều sau giờ lao động tù nhân nầy đi đánh bắt thằn lằn về kho như cá cơm. Nhưng đó cũng lại là cái cớ để gặp gỡ với người nầy, người khác nhất là những người mới thăm gặp để vòi thức ăn, nếu ai không cho y sẽ gây gổ... Trong tù dạng xin ăn này không thiếu. Y bị đi Nhà Đỏ nhiều lần nhưng vì tính chất hình sự nên sớm được thả ra, và rồi vẫn ngựa quen đường cũ. Trước con mắt hớt hãi của y như đi tìm mồi, ai thoáng thấy cũng ái ngại lo tránh xa. Các tù nhân lương tâm nghĩ đến học thuyết ba thế giới của Mao Trạch Đông: hình ảnh các nước thứ ba đến một lúc nào đó vì không kiềm chế được nữa đối với các nước giàu.

Tuổi trung bình của nhóm nầy từ bốn mươi đến năm mươi, người nào cũng trông như khô đét lại, còn nếu trông như mập thì đó là bị sưng phù, mỗi khi đội hình của họ ra khỏi trại, công việc đầu tiên của mỗi người là nhắm vào những đám khoai mì, mặc cho quản giáo, quản chế có la réo, họ cải thiện cho bằng được dù mỗi người chỉ cố vơ không hơn một nắm lá khoai mì để về làm dưa. Ở đây cũng có Ông Hồ Văn Châm, Tổng trưởng Thông tin và Chiêu hồi thời Đệ Nhị Cộng Hòa, Ông cũng biết làm dưa nhưng không chạy. Ông là một đội trưởng. Người nào may mắn lắm mỗi năm gia đình đến thăm một lần, nhưng hầu như rất ít, thời gian cách ly xã hội quá lâu khiến nhiều người không còn biết thân nhân mình bây giờ ở đâu. Và về mặt xã hội, sự gánh chịu lâu năm đối với người trong tù trở nên gánh nặng mà lâu dài các gia đình không thể chịu nổi, nhất là tù hình sự thường gia đình bỏ cuộc rất sớm.

Khi đội hình kia trở về trại giam, họ chạy khắp các phòng lục lạo trong các chỗ rác rưởi, thật đáng thương để tìm xem thức ăn có còn sót chút nào hay không, một số khác tìm cách phục vụ các tù nhân có thăm gặp hầu mong xin được một chút mắm muối gì còn sót lại... “Cuộc đời là một sự chuyển tiếp và suy tàn” như triết gia Nietzche đã nói, nhưng nếu sự chuyển tiếp đã là một sự suy tàn thì còn gì là phủ định của phủ định để gieo niềm tin nơi mai hậu. Các tù nhân thuộc nhóm nầy khi được hỏi về đức tin tôn giáo họ rất thờ ơ: có Chúa, có Phật cũng như không Phật - không Chúa. Nhưng họ không phải là kẻ vô thần. Người nào cũng trong mệt mỏi, những bước chân còn lại trên trần gian nầy dù có rán lê bước nhưng đã quá uể oải. Từ oải oải được nhắc đến nhiều bằng các từ chia cơm, chia nước, cải thiện... trong cuộc sống hằng ngày. Hầu hết họ bị sốt nhẹ vào buổi chiều và có khi sốt cao cả nguyên ngày, có một cái gì đó đang chờ đợi họ. Nó không to lớn lắm và họ cũng không cầu nguyện. Nó là dấu chấm hết. Phân trại nơi họ bị cách ly xa tít, hẻo lánh sát chân núi, dù không được quan hệ giữa các tù nhân với nhau, nhưng những con người nầy cũng tìm cách tâm sự và rồi tự hỏi không biết mình sinh ra để làm gì, để triệt hạ con người, để giết người, sinh mâu thuẫn hận thù, lúc nào cũng phải nói láo với vợ con, bạn hữu và cả chính mình vì chắc chắn không thể nói thật được, với họ thế gian nầy có cái nói thật sẽ chết ngay. Giờ đây trước giờ có thể lâm tử bất cứ lúc nào của mỗi người: cái thật hay không thật cũng chỉ là cái giới hạn, chết có dù cho là hết, nhưng trong họ, thường có nỗi băn khoăn: giá như ta đã làm gì mang lại một chút hữu ích cho đồng loại vẫn dễ nhắm mắt hơn lúc ra đi. Trong nhóm nầy có cả các tướng cướp khét tiếng ở miền Trung và miền Nam như họ Mã, họ Điền, họ Lâm... Họ lầm lì, lúc rảnh rỗi thì đi qua đi lại bên trong các hàng rào kẽm gai và như hầm hừ không nói năng gì cả, theo cuộc sống có lúc họ cũng chạy, nhưng phần lớn họ đều có đàn em và người phục vụ hay hoà đồng cùng chia cơm nước muối, lá khoai mì muối dưa với anh em khác. Người nào cũng chung thân hoặc tử hình được tha tội chết, và đố ai biết cọp khi thả về rừng…

Các tù nhân Côn Đảo này, người nào cũng đã thụ án trên hai mươi năm, các hữu thể biến dạng về tâm lý thần kinh một cách rõ rệt, sự tiều tụy hom hem về thân xác cũng không giống nhau, mỗi người như tự đi về cõi vĩnh hằng một cách, nhưng có lẽ trong tâm tưởng mỗi người, đó cũng chỉ là một sự trấn an với chính mình bởi vì cái có thực là sự hiện diện trong cuộc đời đã không là gì hết, vậy không thể sẽ có cái từ không không, quả là vô thường. Những con người trong tận cùng không phải họ sợ cái chết nhưng cứ ngắc ngoải trước cái chết mà không chết được bởi vì sâu xa của con người qua các triều đại mà họ là nạn nhân hay chứng kiến cũng như góp tay vào để được nhanh chóng giảm án, đó là con người nhằm triệt hạ nhau chứ không nhằm cứu chữa con người.

Nguyễn Quang

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.