Hôm nay,  

Cái Chi Từ Huế

07/01/201821:32:00(Xem: 8467)

CÁI CHI TỪ HUẾ


        Báo Xuân Mậu Tuất 2018 năm nay, khi mời viết bài, tôi được chủ biên cho biết là viết về chủ đề “Made in Huế”!

        Câu hỏi đầu tiên hiện ra tức thời là “Cái chi từ Huế?” Những hình ảnh lướt qua rất nhanh khi nghĩ đến Huế là khung cảnh thiên nhiên kỳ tú, điệu sống trầm lặng và nếp sống thanh đạm của một vùng quê hương miền Trung Việt Nam khiêm tốn, len mình giữa Trường Sơn và Nam Hải.

        Nói đến nhân văn, có quá nhiều điều để viết về Huế. Nhưng nói đến các lãnh vực khác như kinh tế, khoa học… thì khó có những dữ liệu chính xác để tham khảo hay dựa vào để viết về Huế.
        Ba mươi lăm năm sống ở quê nhà và ba mươi lăm năm sống ở quê người, tôi vẫn thường nghĩ về Huế như chiếc nôi văn hóa và tình cảm cho mình, cho những người dân gốc Huế dầu ở phương trời nào.
        Du lịch trên những thành phố lớn của thế giới có người Việt sinh sống, tôi vẫn tìm thấy Huế qua những tiệm ăn, cửa hàng với các dấu hiệu điển hình về Huế như: bún bò Huế, mè xửng Huế, nón bài thơ Huế, áo dài Huế, tranh thêu Huế và cả... màu tím Huế. Rất nhẹ nhàng Huế đã lắng sâu vào lòng dân tộc. Những gì “made in Hue” thì cũng chính là “made in Vietnam”.
        Với thế hệ Chiến tranh Việt Nam – những người sinh từ năm 1930 đến 1950 – thì hầu hết những mặt hàng công nghiệp và kĩ thuật máy móc đều đến từ bên ngoài. Vào những thập niên 30 và 40 thì hầu hết các mặt hàng đến từ Pháp "Fabrique en France" (chế tạo tại Pháp) ! Những năm 60, 70 đến từ Nhật và Mỹ; rồi Trung Quốc.
        Cho đến 1975, kể cả hai miền Nam Bắc, mặt hàng "made in in Vietnam" cũng rất hiếm hoi.
        Trên bước đường tha hương, có người Việt Nam nào mà không xúc động sâu xa khi nhìn trong hàng hàng lớp lớp hàng hóa của các nước khắp nơi trên thế giới có món hàng làm tại Việt Nam - "Made in Vietnam".
        Khi còn ở Huế, người Huế thường ít khi mang Huế qua khỏi bên kia đèo Hải Vân hay vượt dòng sông Mỹ Chánh. Ai muốn đội nón bài thơ, ăn bún Vân Cù, ăn cơm hến Huế thì tới Huế mà giao lưu, ăn uống. Phải chăng nhờ tinh thần... bảo thủ như thế mà hôm nay đi khắp đất nước từ Nam chí Bắc thì hầu như chỉ còn một thành phố mang được dáng xưa, đó là Huế.
        Ngày nay, Người dân Huế như đàn chim tung cánh bay khắp bốn phương trời. Ở đâu có được dăm ba gia đình người Huế là đã có một hình thức biểu hiện “lai lịch Huế” như hội Huế, nhóm Nhớ Huế, hội Quốc Học, Đồng Khánh... ra đời. Có thể nói, hành trang lớn nhất mà người Huế mang theo đến xứ người thuộc về giá trị tinh thần nhiều hơn là vật chất. Đó là phong cách Huế, văn hóa Huế và tâm lý tự hào về di sản Huế kế thừa trong thân phận tha hương.

        Phong cách Huế là nét tiêu biểu nhất trong văn hóa Huế. Đó là cách ứng xử chừng mực, nhẹ nhàng trước những hoàn cảnh khác nhau: Người đó có thể là một nhà tu, một thương gia, một sinh viên đại học, một thợ làm móng tay, một người làm vườn… tại Mỹ hay các nước kỹ nghệ Âu Tây, nhưng “kiểu Huế” của mỗi nhân vật đều đòi hỏi hay ít nhất là đối tượng tiếp xúc trông chờ là thái độ khoan hòa và cách làm việc không vội vàng bợp chợp. Không hiếm lắm với lời trách: “Vậy là Huế dõm rồi. Huế gì mà nhảy choi choi, hung hăng con bọ xít thế!” Nghĩa là phong cách tiêu biểu của Huế phải từ tốn, dè dặt, hài hòa trong tương quan xử thế tiếp vật.

        Cách ăn, điệu ở kiểu Huế cũng đã thành huyền thoại: Từ thời 1802 về sau, Huế là kinh đô của vương triều nhà Nguyễn. Những món ăn, cách trang phục, nghệ thuật làm dáng của phụ nữ, cách “làm đày” của các bà trung niên, kiểu gia trưởng của các ông có địa vị xã hội (từ nhất phẩm triều đình đến cửu phẩm hàng dân dã) từ bốn phương dồn tụ vào Huế đều được sàng lọc, chế biến, gia giảm hương vị, trang hoàng gọt tỉa sao cho phù hợp với điệu đà, kiểu cách của con nhà quý phái, có nề nếp gia giáo.

        Món ăn thì coi trọng phẩm hơn là lượng. Từ những món tôm chua, cua mắm phía Nam đến những món phở, hầm từ phía Bắc đều được cải biên, chế tác theo phong cách mới. Ngay cả những món ăn nhà nghèo như canh hến, cơm nguội từ bữa cơm chiều hôm trước thì dần dà cũng phải được chế biến thành món Cơm Hến Huế độc chiêu. Cũng như món mì phở xứ Bắc khi vào Huế cũng thành món Bún Bò Huế mà tay sành ăn lừng danh quốc tế như Anthony Bourdain cũng ngồi bên gánh bún hến chợ Đông Ba ăn ngon lành và tuyên bố rằng, “đây là món xúp tuyệt chiêu hàng đầu thế giới” (the greatest soup in the world: ngày 20-10-2014). Ngoài ra, những món chả Huế, bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc, bánh ít ram… Huế cũng là những món ăn tao nhã về hình thức và đậm đà về hương vị. Sản phẩm ẩm thực thuần Huế đang được ưa chuộng không chỉ riêng cho người Việt mà còn đối với nhiều sắc dân trên toàn thế giới.

        Đi sâu vào sự lắng đọng của cuộc sống là tinh thần. Nếp sống tinh thần và tâm linh của Huế vừa cổ kính, vừa hiện đại giúp giữ được sự thăng bằng cho đời sống bên trong cũng như bên ngoài. Từ Thành Nội cho đến những vùng Nam Giao, Kim Long, An Hòa, Bao Vinh, Gia Hội, Vỹ Dạ thì hầu như nhà nào cũng có bàn thờ nghiêm cẩn bên trong và những hình thức am miếu bên ngoài. Đặc biệt, các chùa viện Phật giáo Huế thường mang một vẻ thuần khiết và tôn nghiêm. Khi ra nước ngoài, tinh thần Phật giáo Huế lại càng được thể hiện đậm nét tinh cần hơn trong mọi địa phương và hoàn cảnh.

        Giọng Huế “trọ trẹ” theo âm bậc ngũ cung cũng là một đề tài thú vị. Thế nhưng khi xa quê, tiếng Huế không phát huy theo chiều rộng thông thường mà nhập vào chiều sâu của ngôn ngữ. Bộ Từ Điển Tiếng Huế của bác sĩ Bùi Minh Đức in lần thứ 3 năm 2009 với hai cuốn thượng và hạ quy tụ tới 2050 trang in trên khổ lớn, chữ nhỏ được tác giả chuyên tâm biên soạn trong suốt 18 năm, là một “hiện tượng ngôn ngữ” độc đáo. Chưa có một phương ngữ nào, kể cả trong và ngoài nước, ở tầm mức của một tỉnh thành, một cố đô lại có đủ bề dày để tập đại thành một tác phẩm gần với Bách khoa Từ điển như thế.

        Nếu hỏi: “Cái chi từ Huế?” với một người đã xa Huế hơn nửa đời người thì câu trả lời thật không đơn giản vì Huế có quá nhiều giá trị thấy được nhưng đồng thời cũng có những “sản phẩm” tinh thần thông qua cảm nhận và ý thức. Đó không phải là một khái niệm nghịch lý mà là một ý tưởng hợp lý theo vị thế và hoàn cảnh của từng người như cả vũ trụ này là “không” đối với một bậc chân tu; nhưng là “có” đối với một nhà khoa học.

        Cái “có, không” thường chỉ là một khái niệm triết lý; trong lúc thực tế đời sống là bức tranh biến ảo muôn màu. Là người Huế, hơn nửa đời tha hương nhưng vẫn còn thương Huế, tôi vẫn còn miên man nghĩ về Huế không khứ, không lai, không tài, không tận… một cách rất chi là “làm đày” (hờn, mát) kiểu Huế. Và như thế, tôi làm thơ:

RĂNG CỨ ĐÒI THƯƠNG HUẾ

 

blank


 

Huế có chi mô mà đòi thương dữ rứa
Hạ nắng cháy mình mùa đông lạnh cắt da
Dãi đất hẹp Trường Sơn ra tận biển
Cuối tháng mười bão lụt cũng không tha

Nhưng khổ quá 
Tui cũng là dân Huế
Đã xa quê khi mới nửa đời
Nơi đất khách có đủ điều mơ ước
Rủng rỉnh lợi danh tưởng quên được Huế rồi

Ma quỷ bắt cứ đăm đăm về Huế
Nhớ nhịp cầu thổn thức với dòng sông
Tô cơm hến dĩa xôi mè buổi sớm
Cháo gạo nghèo răng thương Huế rưng rưng

Tui đã tới đã đi nhiều xứ lạ
Cũng lặng nhìn bao cảnh đẹp kiêu sa
Nhưng nét Huế không đến từ đôi mẳt
Tự trong lòng thăm thẳm Huế lan ra

Im ắng mãi theo tượng đài cổ tích
Huế ngập ngừng như lời ngỏ tình nhân
Mắt rơm rớm cắn môi là đã nói
Không hẹn hò mà nhớ tới trăm năm

Không chi cả mà nghe đời rất Huế
Hạt bụi hồng thiên cổ vọng bao la
Trong giọt nước chứa linh hồn biển cả
Nên Huế gần mà Huế cũng rất xa

 


Chiều mùa Thu Natomas Park 11-2017

 

 

 Trần Kiêm Đoàn

       

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.