Hôm nay,  

Theo dòng lịch sử

09/01/201822:26:00(Xem: 6643)
blank
Theo dòng lịch sử

 
Giao Chỉ, San Jose
 

Chủ nhật 14 tháng 1-2018 tác phẩm của sinh viên trường Võ bị Đà Lạt sẽ ra mắt 10 giờ sáng tại Trung tâm cộng đồng Việt Mỹ SJ.
 

Sơ lược tác phẩm: 
Tác phẩm khổ lớn 810 trang giá bán $50 US chưa phát hành đã có trên 1 ngàn độc giả đặt mua. Nếu được hỏi ai là tác giả. Câu trả lời không đơn giản. Trong hai năm đầu tiên từ 2014 đến 2016 ban biên tập gồm có 9 người. Qua năm 2017 ban biên tập gồm có 10 người. Sách hoàn tất trong năm qua và ra mắt đầu năm 2018. Đây là một công phu sưu tầm, liên lạc với hàng trăm người trên khắp năm châu bốn bể và trên internet để tập hợp lịch sử của một quân trường trên 35 khóa cả chính lẫn phụ. Tổng cộng bao gồm danh tính và lịch sử của trên 6 ngàn khóa sinh với biết bao nhiêu là hình ảnh. Ngôi trường võ bị Đà Lạt một thời nổi danh Đông Nam Á sinh ra từ năm 1948 tại Huế, chính thức trở thành trường Đà Lạt từ năm 1955 và di tản về Long Thành 1975. Dòng sinh mệnh của ngôi trường danh tiếng chỉ có được 37 năm, nhưng đến nay sau 43 năm đã trở thành dấu ấn của những ngày vinh quang và đau thương trong dòng lịch sử của dân tộc. Tác phẩm của anh em võ bị ghi lại đầy đủ và rất công phu các chi tiết từ ngày thành lập đến ngày tan hàng. Trường Võ Bị phôi thai tại Huế thực sự chỉ là những khóa học đào tạo cấp chỉ huy trung đội thuộc hàng ngũ quân đội quốc gia mới hình thành trong vòng tay binh đoàn Liên Hiệp Pháp.
 
Giấc mộng tương lai. 
Nhưng ngay từ thời gian đó tương lai của quân đội quốc gia đã có những mong ước sẽ hình thành một hàn lâm viện quân sự như trường West Point của Mỹ hay Saint-Cyr của Pháp. West Point Army Hoa Kỳ thành lập 1801 và hai năm sau 1803 Saint-Cyr của Pháp ra đời. Cả hai đều trở thành niềm hãnh diện của chân trời binh nghiệp Âu Mỹ. Những danh tướng Eisenhower, MacAthur, Patton và Haig đều là cựu sinh viên của Point. Bên Âu Châu cả hai danh nhân đối nghịch là Petain và De Gaulle cùng tốt nghiệp Saint-Cyr. Tại Việt Nam, dù sinh ra sau các trường Âu Mỹ hơn cả trăm năm nhưng Võ bị đã đào tạo ra hàng trăm tướng tá bao gồm cả tổng thống đệ nhị cộng hòa.
 

Nội dung tác phẩm.  
Xem qua Mục Lục của tác phẩm, độc giả sẽ ghi nhận được công việc soạn thảo rất đầy đủ từ danh xưng, tổ chức, chương trình huấn luyện gồm cả văn hóa và quân sự.Chúng ta cũng tìm thấy trong tác phẩm bàng bạc những tâm tư và hoàn cảnh sinh hoạt của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam từ thập niên 50 cho đến thập niên 70. Hoàn cảnh vào trườngcủa những chiến binh trong quân đội Pháp và cả giáo phái được tuyển chọn cho các khóa đầu tiên cho đến sự tuyển chọn thanh niên tình nguyện thời kỳ đệ nhất và đệ nhị cộng hòa. Khi chương trình huấn luyện được nâng cấp từ 1 năm lên đến 4 năm thì các chàng trai Võ Bị đã thực sự trở thành lớp người lý tưởng của quốc gia. Phần huấn luyện thể chất và quân sự đã đành là căn bản, nhưng riêng phần văn hóa các sinh viên võ bị vào trường với bằng tú tài và ra trường với bằng cử nhân. Trong giai đoạn sơ khai, các nhân viên tuyển mộ là người Pháp và các vị chỉ huy trưởng cùng các huấn luyện viên trong quân đội Pháp cũng đã nỗ lực dựa theo chương trình và tiêu chuẩn của Saint-Cyr. Tuy nhiên thời gian đó Pháp Quốc không có nhiều phương tiện và cũng đang tìm đường rút khỏi Việt Nam nên không có sự hỗ trợ đáng kể. Kể từ khi thành lập trường võ bị liên quân Đà Lạt cho đến khi chính thức thành trường Võ Bị được Hoa Kỳ trực tiếp yểm trợ không riêng về tiếp vận mà cả về việc xây dựng lý tưởng cho chàng trai thời đại theo mẫu mực West Point.

Độc giả và tác phẩm.

 blankCổng trường Võ Bị

Cá nhân chúng tôi trải qua hơn 20 năm quân vụ sau khi tốt nghiệp khóa Cương Quyết trừ bị tại trường liên quân Đà Lạt 1954. Trở thành độc giả có nhiều mối liên hệ với tác phẩm. Đọc suốt cuốn sách từng trang, nhớ lại cả cuộc đời. Nhiều chuyện đã biết nhưng cần đọc lại. Nhiều chuyện đã biết nhưng không còn nhớ, và nhiều chuyện không biết. Mỗi một danh tính đều là những nhân vật quen biết hoặc là đã từng nghe nói đến. Cả chân trời kỷ niệm mở ra. Xin ghi lại những điều đáng lưu ý. Cuốn sách dành nhiều sự trang trọng cho tổng thống Ngô Đình Diệm về sự lưu tâm của ông đến trường Võ Bị. Nhắc đến một đoạn tổng thống nói: Sinh viên không nên học ở đây chỉ để trở thành các sĩ quan cấp tá già nua về hưu. Tốt nghiệp ở đây để trở thành tổng thống, các nhân vật lãnh đạo chính phủ hay tướng lãnh. Cũng ghi nhận thêm là khóa 1 gồm có 64 sỹ quan tốt nghiệp, sau này có 9 vị lên cấp tướng trong đó có trung tướng Nguyễn văn Thiệu làm tổng thống và trung tướng Nguyễn hữu Có làm tổng trưởng quốc phòng. Sau năm tốt nghiệp có 20 sỹ quan khóa 1 được theo học trường võ bị Saint Cyr. Tất cả các vị khóa 1 đều xuất thân từ quân đội Pháp được tuyển chọn trong hàng ngũ hạ sĩ quan ưu tú và rất thông thạo tiếng Pháp. Họ là những quân nhân xuất sắc nhất của thời đó trong binh đoàn Liên Hiệp Pháp. Sau này chúng ta có dịp nghe tổng thống Thiệu nói chuyện trôi chảy với các phóng viên Âu châu.
 ​

 Hơn 10 năm sau cũng đã có những khóa võ bị được gửi đi du học Hoa Kỳ cả khóa và trở thành các sỹ quan thông thạo Anh ngữ để giao thiệp với cố vấn trên chiến trường hay tại các đơn vị kỹ thuật. Chương trình dành cho các sinh viên 4 năm theo mẫu West Point nên gồm cả các môn kiếm thuật, kỵ mã, khiêu vũ, nhảy dù, huấn nhục, mưu sinh thoát hiểm, và lãnh đạo chỉ huy.  Sinh viên ra trường sẽ là mẫu người văn võ toàn tài, hào hoa phong nhã. Các nhà bình luận thời sự đã ghi nhận rằng nếu các niên trưởng giữ được miền Nam thêm 5 năm cho đến 1980 thì lớp Võ Bị sau này có cơ hội thay thế trong guồng máy lãnh đạo quân đội và chính quyền, dòng lịch sử Việt Nam có triển vọng sang trang mới.


blank  ​Nữ sinh viên Việt Nam tốt nghiệp West Point

Giới thiệu những trang sách.

Nếu phải giới thiệu cho bằng hữu nên đọc đoạn văn nào. Tôi xin các bạn mở trang147 để đọc về chuyện trường di tản từ Đà lạt về Long thành. Tháng tư 75 tổng cộng 4 khóa võ bị cuối cùng gồm 1000 người bỏ ngôi trường thân yêu để di tản. Chỉ huy trưởng và các sĩ quan cán bộ đều xuất thân Đà Lạt. Những ngày tháng cuối cùng ngôi trường mẹ và những đứa con thân yêu vẫn tiếp tục sống trong kỷ luật nhưng đã phải dồn nén đau thương với những tin chiến sự khắp các vùng chiến thuật. Rồi đến ngày bỏ trường trên con đường di tản về Sài Gòn nhưng không phải là con đường sẽ đi những bước diễn hành với nhạc quân hành trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Chỉ thấy hoang mang và tủi nhục. Hai khóa đàn anh 28 và 29 làm lễ mãn khóa ra trường tại Long Thành. Hôm đó là ngày 21 tháng tư 1975. Ai nghĩ rằng chỉ hơn một tuần sau là nước mất, nhà tan. Không có quốc trưởng, tổng thống chủ toạ. Không có màn bắn cung đi bốn phương trời. Nhà hàng Phước Hùng vội vã đem đến những lá cờ may gấp. Các sinh viên tự gắn lon cho nhau. Trung tướng Nguyễn bảo Trị lúc đó là tổng cục trưởng tổng cục quân huấn chủ toạ lễ mãn khóa. Tướng Trị nguyên là sinh viên khóa 1 Nam Định chưa từng bao giờ chủ tọa lễ mãn khóa cho các sinh viên Thủ Đức hay Đà Lạt. Thời gian đó cũng chẳng còn ai chỉ định ông phải lên Long Thành để hoàn tất một ngày cuối cùng hết sức đau thương của 1000 khoá sinh võ bị. Không thể ngờ lúc vào trường với đầy hy vọng tương lai mà kết cuộc bi thảm như thế. Không ai nhớ ông Bảo Trị đã nói gì vào ngày cuối cùng của sinh viên Võ Bị tập trung ở Long Thành. Sau đó 2 khóa đàn anh ra đi về những đơn vị co cụm chung quanh thủ đô. Chính gia đình họ còn biệt tin khắp 4 vùng chiến thuật. Hai khóa đàn em 30 và 31 về trường Thủ Đức. Lần đầu tiên Thủ Đức và Đà Lạt gặp nhau chia xẻ những viên đạn cuối cùng. Ký giả Pháp gặp những sinh viên mới trở thành sỹ quan chiến đấu trận cuối cùng trên vành đai xa lộ Biên Hòa. Vấn đáp được ghi lại trên báo Paris Macth. Giờ này anh còn chiến đấu cho cái gì. Còn gì nữa đâu. Đáp rằng cũng chỉ còn những hàng chữ Tổ quốc, Danh dự và trách nhiệm như các sinh viên Saint Cyr và West Point trong đệ nhị thế chiến..                                                                   

Tự thắng để chỉ huy.

Năm 1955 về nhận chức chỉ huy Đà Lạt đại tá Nguyễn văn Thiệu đặt ra hàng chữ Tự thắng để chị huy gắn trên mũ lễ phục sinh viên. Mấy năm sau, đại tá Trần ngọc Huyến là người có công sức đưa tinh thần võ bị lên đỉnh cao. Sinh viên được huấn luyện để có thể tự hào về phẩm chất xuất sắc của người trai thời binh lửa nhưng đồng thời không quên bài học Tự Thắng từ thời ông Thiệu. Có lẽ ngày nay, sau 43 năm dâu bể, người sinh viên trẻ nhất cũng đã ngoài 60. Dù trải qua tan hàng, tù đầy hay vượt biên, tất cả đều tồn tại và ổn định nơi hải ngoại. Chúng ta cùng có 1 câu hỏi phải trả lời. Thiếu tướng Nam, tư lệnh quân đoàn IV, trước khi tuẫn tiết đã hỏi người ra đi: Đi để làm gì? Xin tự hỏi, chúng ta trong những năm qua thực sự đã làm gì cho dân sinh tại hải ngoai và dân quyền tại quê hương. Năm nay 2018 là năm tổng hội võ bị Đà Lạt phân chia đôi ngả. Duyên cớ vì đâu ? Không biết thì thắc mắc. Biết lại thêm buồn. Phe tổng hội ví như hành pháp đang giữ ngọn cờ chủ tịch ở Nam CA. Phe đại diện khóa như quốc hội lập pháp trở thành đối lập ở miền Bắc CA. Tháng 5-2018 San  Jose sẽ tổ chức đại hội toàn thế giới. Tháng 6-2018 quận Cam cũng có đại hội toàn cầu. Cùng trường võ bị với tinh thần chiến hữu qua 30 năm binh lửa, 40 năm lưu vong. Lảm thế sao đành?  Tác phẩm Võ Bị theo dòng lịch sử vốn là một phần của lý do tranh cãi hai nẻo Bắc Nam, có thể sẽ còn phải thêm những trang đen tối sau cùng ở hải ngoại. Rồi mai đây, ai là người thực sự thi hành châm ngôn Tự Thắng để Chỉ Huy.

--  

Giao Chi San Jose.   [email protected]  (408) 316 8393

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.