Hôm nay,  

Cẩu Sự : Tuất hay Chó

09/02/201808:55:00(Xem: 8111)
Cẩu Sự : Tuất hay Chó
 
Nguyễn thị Cỏ May

 
Năm dương lịch 2018 nhằm năm Tuất theo Âm lịch . Phần lớn người Việt nam quen gọi năm con Chó . Người Pháp cũng gọi năm con Chó – L’Année du Chien . Nhưng «Tuất» phải có nghĩa là « Chó » hay không ?

Theo nhà Việt học Nguyễn Cung Thông, thì «Tuất / Chó » là biểu tượng chỉ năm thứ 11 trong 12 con Giáp theo Âm lịch . Ông nói rỏ thêm « Các dữ kiện ngôn ngữ, đặc biệt khi xem lại các từ Hán cổ liên hệ, đều cho thấy nguồn gốc phi-Hán (không phải của Tàu) như nhiều người đã lầm tưởng từ Đông sang Tây và qua bao ngàn năm nay » .

Các hình khắc/vẽ của chữ Tuất cho thấy hình cây kích (bộ qua là cái mác). Các dữ kiện ngữ âm trên cho ta một kết luận là Tuất không có liên hệ gì đến loài chó trong tiếng Hán, phản ánh qua các cách gọi khuyển , cẩu , hiêu/kiêu , hiểm … So sánh các quá trình hình thành các chữ khuyển (tượng hình, hình loài thú như chó) và cẩu (cũng thuộc bộ khuyển) – xem hình bên dưới. Nếu chữ Tuất có nguồn gốc tượng hình (loài chó như chữ khuyển) thì khó mà đặt vấn đề về nguồn gốc phi-Hán của tên 12 con giáp.

 

Các dạng chữ Tuất cổ :

blank
Các dạng chữ Khuyển cổ :

blank

                  Tóm lại, Tuất trong cách gọi năm Tuất (12 con giáp) không có liên hệ nào tới loài chó hay cách gọi chó trong tiếng Hán như khuyển, cẩu, sử/sứ, li, lang, ngao, ngan … Tên gọi Tuất (qua một dạng âm cổ phục nguyên *swot đề nghị trong bài này) liên hệ đến chó có khả năng đến từ phương Nam, như từ ngữ hệ Mon-Khme mà tiếng Việt cổ là một thành viên quan trọng. …(Nguyễn Cung Thông, Tuất, internet)

 

Cũng nói về chữ Tuất/Chó, Giáo sư Hán nôm Đại học Văn Khoa Sài gòn Nguyễn văn Sâm cắt nghĩa rất đơn giản, chắc dễ được nhiều người chia sẻ hơn . Theo ông, thì « người xưa đặt ra 12 cửa, mỗi cửa đặt ra cái tên gì đó cho dễ nhớ thôi để chỉ 12 chi trong lịch Tàu. Từ cái tên khó nhớ Tý, Sửu, Dần.... Người xưa, đặt thêm các con vật vô đó cho người bình dân dễ nhớ .

Ông không cho rằng Tý, Sửu, Dần, Mẹo... là tiếng Việt xưa chỉ Chuột, Trâu, Cọp, Mèo bị biến thể .

Ông nhắc lại đề 36 con ở Sài gòn ngày xưa, tức «Đề Cổ Nhơn ». Mỗi con số họ cho ứng với 1 con vật và ứng với một nhân vật của Tàu . Người Việt nam bỏ qua nhân vật Tàu mà chỉ nhớ con vật thôi . Từ đó mới có số 2 là con ốc, số 31 là con tôm (ai còn nhớ 2 con vật này ngầm chỉ cái, con gì liên hệ tới con người ?), và số 35 là con dê...

Chuyện nầy cũng giống như chuyện thời VNCH, các ứng cử viên Dân biểu đều kèm theo tên của mình một cái hình biểu tượng. Điều đó không có nghĩa cái tên = cái hình, là nghĩa của cái hình...

Tóm lại «Tuất» hoàn toàn không có nghĩa là chó. Nó là tên chỉ một CHI, cửa thứ 11 trong thập nhị chi của lịch Tàu mà thôi» .

 

Quan điểm về chó

Chó là con vật có nhiều tên hơn Mèo tuy cả hai đều sống thân cận với gia chủ. Tên ở đây không phải là tên gọi do gia chủ đặt riêng cho nó mà đó là những cách gọi khác nhau chủ yếu chỉ nhằm tránh phải gọi “chó”. Người cựu học thâm nho thì gọi “mộc tồn” vừa cho có chữ nghĩa thánh hiền, vừa biểu lộ tính “cao quí” của một tầng lớp sinh vật. Phái tân học gọi “cầy tơ” chủ về nền văn minh phi vật thể ẩm thực của nhơn loại. Kẻ chủ trương hưởng lạc theo trường phái triết gia Épicure (Hy-lạp ở Athènes trước công nguyên) không ngần ngại quả quyết đó là “sống trên đời”. Đến thời kháng chiến chống pháp, Việt minh cộng sản lập thành tích “hạ cờ tây” để chào mừng bác đảng ! Nhơn dân đồng bằng xứ Nam kỳ nói một cách đơn giản, nhưng rất gần gủi vừa phảng phất mùi «quốc lủi» (rượu đế) “Nai đồng quê”.

Cách gọi đã khác nhau thì khi đi vào thực tiển, chó cũng cho loài người nhiều món nổi tiếng khác nhau. Chó có tiếng sủa vang. Loài người khi luận về chó cũng lắm ý kiến, quan điểm khác nhau, chống đối nhau ỏm tỏi.

Người phương Tây yêu quí chó vì chó là người bạn trung thành, thông minh, luôn được nhắc tới với ngụ ý tốt. Nhưng chó, theo quan niệm phương Đông hay Việt Nam nói riêng, không phải trường hợp nào cũng gợi tới điều hay, ý tốt. Điều đó được thể hiện khá rõ trong kho tàng tục ngữ, ca dao. Bên cạnh những thành ngữ ca ngợi đức tính trung thành của con chó như “ nhứt khuyển nhì mã ” thì cũng có những thành ngữ, tục ngữ với hình ảnh con chó hàm ý không tốt đẹp như “chó dại cắn quàng” hay “giởn chó, chó liếm mặt”. Nếu nói rằng người Việt ta ai cũng yêu mến, quý trọng chó thì không hẳn đúng. Đến như người Mỹ, Pháp, Anh, Đức, …có tiếng là thương chó “Gia đình thường gồm có vợ chồng và con chó” mà vào mùa hè họ vẫn đem chó vứt bỏ ngoài đường để đi nghỉ hè. Hết hè, trở về lại tìm mua chó nuôi nữa.

 

Yêu chó, quý chó hay ghét chó, khinh chó. Đó là quan điểm riêng của mỗi người. Nói ai đúng, ai sai, đều là cách phản ứng chủ quan, nặng tinh thần phe cánh. Tranh cải nhau lại càng vô lý, vô duyên.

“Cẩu sự” là vậy. Còn “cẩu nhục” thì sao? Thịt chó đơn giản chỉ là một món ăn !

Trên thực tế sẽ không đơn gìản như vậy. Những người yêu chó, quý chó thì không nở ăn thịt chó. Chứ không vì minh là người văn minh, đầy tính nhân bản . Còn người thích ăn thịt chó, thì bảo vệ quan điểm “sống trên đời không ăn thịt chó, mai kia xuống âm phủ, biết có hay không?”

 

Thịt cầy, lịch sử và đạo lý

Làm món thịt cầy (La cynophagie) là một bộ môn thuộc nghệ thuật làm bếp và văn hóa ẩm thực có từ xa xưa của nhiều xứ á châu như Việt nam, Tàu, Triều tiên, …và Phi châu. Riêng ở Nam dương, dân công giáo hưởng ứng nền văn minh ẩm thực này. Phần còn lại, đại đa số là dân hồi giáo thì kiên cử như kiên cử thịt heo.

Nhiều nước Âu châu phản đối ăn thịt cầy vừa bày tỏ sự ghê tởm. Vào cuối thế kỷ XX, luật pháp còn ngăn cấm nghiêm ngặt việc giết cầy làm thịt. Nhiều Hội bảo vệ thú vật ra đời. Ở Pháp có nữ minh tinh Brigitte Bardot làm Hội trưởng APA (Association de la Protection des Animaux) hoạt động tích cực. Bà di chuyển bằng phi cơ. Tới kỳ bầu cử Tổng thống, bà ủng hộ ai, người đó sẽ có nhiều may mắn đắc cử.

Nhưng ăn thịt cầy lại rất phổ biến vào thời cổ đại la-mã và ờ vài nơi khác. Thịt cầy hầu như chưa bao giờ thật sự vắng bóng ở Âu châu. Vào đầu thế kỷ qua, người ta còn thấy vài tiệm thịt cầy ở Pháp. Ở cuối thế kỷ XIX, ở Paris đầy rẩy tiệm thịt cầy. Và chợ bán chó họp chợ ngay trên đường Saint Honoré, một đường phố sang trọng ngày nay.

Người ta không ăn thịt cầy từ khi những con vật được phân loại “thú rừng”, “thú nhà” như heo, gà, vịt, … và “thú thân cận” như chó, mèo, …Tuy nhiên việc ăn thịt cầy dường như ngày nay vẫn còn duy trì trong chốn riêng tư. Như ở vài vùng quê hẻo lành ở Thụy sĩ. Trái lại, thịt cầy lại được ưu đải ở Tàu, Triều tiên, Việt nam. Ở Tàu, mỗi ngày có hơn 30 000 con chó bị làm thịt và mỗi năm có tới hơn 10 triệu con tẩm bổ cho các chú Ba Tàu khá giả. Ở đây có cả trại chăn nuôi chó thịt. Riêng ở Hồng kông thịt chó bị cấm. Vì ảnh hưởng nền văn minh anh quốc?

Vài tôn giáo ở Á châu như bà-la-môn, hồi giáo, cấm ăn thịt chó như thịt heo. Phật giáo ngăn cấm các thứ thịt do cấm sát sanh. Riêng các hệ phái thiên chúa giáo tỏ ra dễ dải với việc ăn hay không thịt cầy và các thứ động vật khác.

 

Không ăn thịt cầy, không phải người Việt nam?

Trong tháng 4 vừa qua, xảy ra việc tranh cải chung quanh một dỉa thịt cầy: 1/ Tại sao người Việt nam ăn thịt cầy? 2/ Bạn (là người Việt nam) có ăn thịt cầy không?

Vì người âu châu ngày nay không còn mấy người ăn thịt cầy nữa nên câu hỏi đó đặt ra cho một người Việt nam, nhứt là người Việt nam đến từ Miền Bắc, không thể không hàm ý một biểu hiện kỳ thị.

Thật ra người Việt nam ăn thịt cầy nhưng không phải ăn bất kỳ loại cầy nào. Họ chỉ ăn loại cầy thịt, tức loại cầy có vóc dáng nhỏ. Được cầy hương là ngon tuyệt. Thông thường thì vàng hơn mực. Nhưng không có thì cầy nào cũng được. Còn hơn không ! Loại cầy to lớn của Âu châu, họ không ăn. Một phần vì thịt không ngon. Mặt khác, loại cầy này được nuôi để phục vụ đời sống con người nên chúng trở thành thân thiết và hữu ích. Như cầy đi săn, kéo xe, bảo vệ, chiến đấu, giử nhà, …

Về quan hệ thân thiết giửa người với loài vật thì người Âu châu có con chó, người Việt nam chúng ta có con trâu : “Trâu ơi, ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta. Cấy cày vốn việc nông gia. Ta đây, trâu đó, ai mà quản công” nên người Việt nam kiên cử thịt trâu cũng giống như người âu châu kiên cử thịt cầy.

Nếu nói rằng người Việt nam có tập quán ăn thịt cầy ví xứ thiếu chăn nuôi nên thiếu thịt là điều không đúng. Họ ăn thịt cầy vì sở thích ẩm thực mà không vì thiếu thịt. Đổi cái đùi cầy lấy cái đùi heo, chưa chắc họ chịu đổi. Đó là điều cho thấy tại sao người viêt nam thích ăn thịt cầy : «Đúng, thịt cầy rất đặc biệt – miếng thịt cầy thường có đầy đủ các thành phần: nạc có, mỡ có, da cưng cứng có… nạc không ra nạc, mỡ chẳng ra mỡ - nạc của nó không bã ra như miếng sắn dây đầy xơ, cũng không phải cắn phòi mỡ ra như thịt lợn béo… thịt cầy ăn có một vị gây gây, nhưng cái gây gây đó là gây gây dạng ma túy, người ta hoàn toàn có thể ghiền vì nó được. Miếng thịt bò gây gây, ăn mùa đông nguội là mỡ có thể đông cứng trên miếng thịt, nhưng miếng thịt cầy làm khéo, kể cả nguội vẫn mềm và vị gây của nó thì hoàn toàn không bị chán. Chính thứ mỡ màng ấy của nó, khi nó chảy, cháy trên lửa nướng làm cho nhiều người đang đi đường, hít mùi mà cầm lòng không đậu, phải dừng bước ghé vào … Đến nỗi câu cầy tơ bảy món : luộc, nướng, chả, nhựa mận, xáo, đùi nhừ hoặc gan nướng cuốn mỡ chài, dồi nghe âm vang như lời một giáo chủ hiệu triệu tín đồ vậy » !

 

Dân ăn thịt cầy sành điệu thường phân biệt ”con chó với con má”. Theo sự phân biệt này, con chó là con vật khôn. Nó không bao giờ ăn thịt đồng loại. Còn con má là con vật ngu, gặp thịt là ăn, không biết phân biệt. Ăn thịt cầy là ăn thịt con má này. Nhưng khi ăn thịt cầy, có ai biết phân biệt không?

 

Ở Sài gòn sau 30/4, người dân thường chửi đổng, nhắm vào VC, những lúc bất mản “Nay là thời chó đẻ”. Nhưng bị sửa lại “Thời chó chết” mới đúng vì “chó đẻ” là chó còn sống được nên mới đẻ.

Giám mục Seitz phục vụ ở Việt nam, đặc biệt vùng Cao nguyên, ghi hồi ký gồm 93 trang, hai Phần. Ông bắt đầu ngày 7 tháng 4/1975 với tựa sách “ Thời chó câm” (Le Temps des chiens muets). Sau đó, ông bị trục xuất về Pháp (nghe nói ông bị giáo hội rút về để tránh đụng chạm vô ích trong vấn đề ngoại giao ?) . Ông điều khiển một Chủng viện ở ngoại ô Paris, vùng Marne la Vallée, đem theo vài chủng sinh gốc Thượng. Trong số chủng sinh này, có người đậu Cử nhơn Triết ở Sorbonne hiện có vợ đầm, sanh sống ở Vendée, miền Tây-Bắc nước Pháp. Có ngưòi làm thợ Điện tử nhưng cậu này lúc nào cũng chờ để trở về xứ. Người sau cùng trở thành Linh mục và hiện phục vụ tại một giáo xứ của Paris XV.

 

Ai cũng biết khi Hồ Chí Minh tới, chẳng những chó không dám sủa mà cũng muốn vượt biển nữa . Không riêng gì chỉ có con người !

Vậy năm nay Chó tới, chớ không phải Hồ Chí Minh tới, thì liệu Bà Con vượt biển sau 30/04/1975 sẽ trở về quê hương chăng :

 

…"Chó mừng tân chủ rỡ ràng

Bôn phương tấp nập lên đàng hồi hương 

Long Hoa muôn thuở biên cương

Việt Thường con cháu Tiên Rồng vẻ vang."(*)  

 

 

(*) Lời Sấm của Bà Liễu Hạnh về cơ dạy về tình hình Vìệt nam năm 1938 được Cụ Dương Bá Trạc  ghi tại Đền ngọc Sơn ở Hà nội, có mặt Lm Lê Quang Oánh .

 

 

Nguyễn thị Cỏ May

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.