Hôm nay,  

HÀNG XÓM

16/02/201812:27:00(Xem: 7881)

HÀNG XÓM

 

Lưu Na

 

Xếp các thức vừa mua ở chợ vào bếp xong, cô vào thay quần áo.  Điện thoại reo, nhưng là điện thoại của lão Khọm sát vách.  Cô chạy ra sát cửa patio vểnh tai nghe. 

-…

-Này Trấn Văn Vương, chiều nay qua nhà tớ, có món đặc biệt.

-…

-Thì cúng buổi trưa cho xong rồi qua.  Mình rước ông bà về ăn Tết buổi trưa mới có xe đò, chứ chiều tà các cụ ngại!!

-…

-Nhớ khều lão mắt kiếng, mà khều cho sớm vì lão khệnh khạng lắm cơ.

-…

-Yên chí, nếu dở tớ đền, đền món khác dở hơn.

-…

-Dở hơn, mà có dở hơi cũng cứ là được thôi!

-…

-Nhớ nghen, giờ nào cũng được miễn có mặt.

 

A ha, sắp có cuộc vui.  Vào bếp, cô sắp đặt xôi, bánh mứt, và trái cây sẵn vào đĩa, rồi quay sang lau bàn thờ.  Bát nhang đầy cứng, bụi bặm phủ mặt tủ bám cả vào khuôn hình và chân nến.  Mấy cái chung đồng đã xỉn màu, thôi lần này phải thay chung sứ cho dễ rửa.  Cô đứng trên cái ghế đẩu con con, mân mê những bức hình đen trắng đã ngả màu.  Ông ngoại áo vét tóc rẽ lệch ngôi, bà ngoại khăn vấn nhung đen nụ cười phúc hậu, cậu cũng chỉ là một thanh niên hiền lành.  Ba thì hình ảnh đã màu sắc hiện đại, nền xanh lơ với nụ cười mím chi chừng mực.  Cô chợt thót bụng nhớ ra, mãi đến bây giờ vẫn chưa in hình em trai để lên bàn thờ.  Nhà cô ngày một rộng mà bàn thờ ngày một chật, cô thẫn thờ lau dọn lòng vương vấn những năm tháng êm đềm xưa của tuổi ngây thơ.  Khói nhang muôn đời vẫn một mùi êm ấm nhẹ nhàng, mà lòng người chuyển nhanh như mây.

Bây giờ cô quay sang cắm hoa vào bình.  Ba muốn cúng lay ơn đỏ ngày Tết, nhưng má và cô thích huệ trắng ngà thơm ngát nhà lúc về đêm.  Không sao cả, hai bình lay ơn đỏ sẽ ngự trên bàn thờ, bình huệ với thật nhiều rong xanh mướt đệm thêm những cành cúc trắng li ti sẽ đứng giữa bàn ăn.  Bó cúc vạn thọ dành cho bàn cúng giao thừa, còn bó mai rừng sẽ đứng gần lò sưởi.  Chỉ hoa không thôi đã tốn bạc trăm, nhưng cô mừng mình vẫn được sống như một người Việt dù đã muôn trùng xa cách.

Cô sắp hoa trái bánh mứt lên bàn thờ rồi vào bếp sửa soạn mâm cơm cúng bữa chiều.  Tỉa hoa củ cà rốt để sắt mỏng, cắt xéo từng miếng xu hào, tước xơ các trái đậu tuyết, cô xào các thứ đã cắt với lòng gà và bóng, đã sẵn từng miếng trắng nõn đang ngâm nước nóng.  Cô lấy miến và măng đã ngâm sẵn từ tối qua để nấu bát canh với gà luộc ban sáng.  Bày thêm đĩa thịt quay, mâm cỗ của cô kể như hoàn tất.  Cô xoa tay hài lòng nhưng tưởng như ba trên bàn thờ đang bĩu môi: quí gì cái thứ đi mua về!!!  Không sao, ba, quí ở tấm lòng mà _ cái câu này cô vẫn dùng thường xuyên nói không vấp váp không ngượng miệng!

Đã 4 giờ chiều, cô xếp dọn các thức ăn lên bàn thờ.  Cái bàn thờ bé tí, xếp đủ thứ món lên là cả một kỳ công, cô loay hoay gần nửa tiếng mới xong.  Đốt hai ngọn nến, thắp ba nén nhang, cô thầm khấn nguyện mà thực sự chả có lời khấn nguyện nào ra hồn, bởi mấy mươi năm sống nơi này cô đã quên bài bản khấn khứa!  Cô vái như gà mổ thóc.  Ra bàn ăn ngồi chờ nhang tàn, cô hóng tai nghe động tịnh nhà bên mà sao thấy im ắng, có “nhậu” không đây hay lại “xù” nhau rồi?

Ngồi không thấy ngày như đứng lại, chán quá chả biết làm gì cứ chốc chốc cô ra sát cửa patio mong nghe được một điều gì mà mặt trận hàng xóm vẫn yên tĩnh.  Quái, lão khọm đi đâu chăng?  May, nhang đã tàn, cô vờ cái lệ 2 tuần nhang của ba khi xưa, leo lên ghế đẩu con thổi tắt nến.  Thức ăn cứ để đó, giờ cô phải vào nhà dưỡng lão với má vì đã đến giờ cơm chiều của bà.

Tưởng chỉ có phố Bolsa nghẹt người vì chợ Tết, nhưng xa lộ còn kẹt hơn nữa với những hàng xe nối đuôi chờ vào ra ở hai ngõ Brookhurst và Magnolia.  Cô sốt ruột quay đầu xe đi luồn vào những con lộ nhỏ.  Đường dài hơn nhưng ít kẹt xe, thời gian chậm trễ không bao nhiêu.  Cô vào đến nơi nhân viên đã cho bà ăn được nửa bữa, vừa thấy cô mụ điều dưỡng viên đứng phắt dậy cười toe nhường chỗ.  Bà cụ nắm chặt lấy tay cô: “trời ơi, thấy con Mẹ mừng quá, sao mãi lâu con chẳng vào thăm mẹ…”  Người chung quanh cười ồ.  Cái bịnh nhớ quên lẫn lộn chốn này chỉ là chuyện vui, không ai còn ái ngại.  Cô rủ rỉ, hôm nay 30 Tết, ngày mai sẽ có tiệc đầu năm, má mặc áo dài nha.  Ui giời, cái đó là dĩ nhiên rồi.  Con lấy cho mẹ bộ áo dài nhung đỏ có thêu cúc trắng và đôi giầy màu kem nhá.  Bố mày đâu, hay lại qua nhà con vợ bé.  Lại cười ầm.  Mất ký ức nhiều khi là điều may mắn, má đâu còn biết đau lòng.  Cô đút cơm liền tay sợ dần dà bà chán không chịu ăn.  Rồi lại hát, lại múa men, lại dóc lác, lại bế vào giường thay tã đắp chăn…  Ngày tháng của các cụ không có bốn mùa chẳng nắng chẳng mưa.  Cô ra về, cũng chẳng còn thấy vui buồn.

Nhà bên đèn sáng rực ồn ào.  Các đại ca đã đến!!

Cô rút vào nhà thay quần áo, thu dọn các thức cúng xuống bàn ăn rồi tự làm cho mình một đĩa.  Bên kia lão khọm đang thao thao cái món đặc biệt của lão.

-Này nhớ, tớ đâu có cho bà nhà tớ mua giò heo cắt khúc sẵn.  Phải để nguyên cái mà nướng hơi khét rồi mới cạo sạch cho vàng đều thì da sẽ thơm mà khói không ám vào thịt vào xương.  Ai chặt à, thì còn ai vào đây, bà nhà tớ có con dao phay to lắm kia.  Phải ra ga ra chặt mới khỏi lo dây ra bếp.  Mà, cái công đoạn băm riềng mới là vất vả, vì riềng nó cứng hơn đá.

-Còn ông chỉ là củ nghệ đập cái bép là xong.  Tiếng Bắc, giọng lừng khừng cà khịa, chắc lão mắt kiếng.

-Tép tỏi không?  Giọng Trấn Văn Vương.

-Không, tỏi thơm tho gia vị chứ nghệ thì nhẽo nhoét nhạt phèo.  Chỉ được cái vàng ệch thuốc Bắc.

Cô chồm người dí sát mặt vào cửa patio nhìn xuyên kính cửa sổ nhà bên để đọ tiếng với người.  Lão mắt kiếng là đây.  Ông này bộ dạng nghiêm chỉnh ngay ngắn vuông vắn, từ cái mắt kiếng đến khuôn mặt và đôi vai, ngồi đâu góc Trấn Văn Vương.  Lão khọm lờ những lời cà khịa, nhẩn nha kể lể tiếp. 

-“Đặc sản” là món mẻ, của nhà gầy chứ không mua đâu nhớ.  Giả cầy mà lại dùng me, dùng ya ua, dùng cà ry thì… tặc tặc… lạc quẻ.

-Cơm thiu nuôi thành mẻ, cũng như vang xấu để lâu thành dấm chứ có gì mà khoe um!  Lão mắt kiếng vẫn nhẩn nha châm chọc. 

Bây giờ lão khọm đứng lên giúp phu nhân dọn thức ăn ra bàn nên tạm ngưng đấu khẩu.  Góc trong Trấn Văn Vương đang lim dim mắt cười ruồi cũng chồm lên phụ một tay chuyển thức ăn đặt vào giữa bàn.  Xong.  Tam nhân đồng hành cùng nhau nâng chén, đầu bên này các phu nhân cũng rủ rỉ chén đũa mời nhau.  Lão khọm gắp một miếng giò heo vàng nâu bóng bẩy vào chén.  Lão lại tiếp tục cái món giả cầy gia truyền ngon hơn cầy thiệt.

-Ướp mắm tôm riềng mẻ độ một giờ rồi mới phi hành tỏi cho thơm mà đảo.  Xăn thịt rồi mới thêm nước và chỗ riềng còn lại vào nồi để lửa liu riu.  Lâu lâu phải nếm lại xem đã vừa mắm muối, khi nào thấy sền sệt là giò heo đã mềm, có thể tắt bếp, nhưng chớ ăn ngay.

-Ủa, không phải ăn nóng mới ngon sao?  Trấn Văn Vương phu nhân buột miệng hỏi, Khọm phu nhân vẫn củ mỉ cù mì nín thinh. 

-Thế, thế các cụ mới bảo có của còn phải biết dùng, món ngon còn phải người sành thưởng thức.

-Chứ lúc nào mới ăn, chả lẽ chờ nguội lạnh?

-Không phải vậy.  Múc ra tô, hành lá một dúm bên trên cho thơm tho đẹp mầu, độ năm phút sau giả cầy nguội bớt thì nước mới sánh mà chan vào bún.

-Lão này vẫn quen ăn độn ông ạ.  Mắt kiếng quyết không tha.  Trấn Văn Vương tà tà gặm giò heo không ý kiến. 

Độ mươi phút ngưng chiến, chỉ nghe chén đũa lanh canh, rồi là ly cạn với ly đầy.  Bên này cô cũng tì tì gặm cánh gà chân gà cùng 3 chung rượu cúng.  Cô nhớ cái cảnh bếp núc ngày Tết khi xưa mà ớn.  Có một con gà làm đủ thứ món, rồi là bóc tôm, thái thịt bò thịt heo cho những món khác sao cho đủ bốn đĩa bốn tô.  Xôi phải nén vào chén trước khi úp ra đĩa cho tròn, chả quế phải cắt con thoi bầy như hoa 6 cánh…  Tất cả những công việc đó đều không đến tay cô vì má bảo cô đoảng.  Cô chỉ có một gióp là rửa dọn, trên đời này chả có gì sướng bằng vung tay làm bếp và có kẻ theo hầu, chả có gì khổ bằng phụ bếp hết cả hơi không chút công lao.  Ớn, nhưng giờ đây cô có muốn làm con sen cũng đâu còn dịp, những tiếng cười vang dưới ánh đèn bên lão khọm như khúc phim dĩ vãng nhắc cô những phút giây ấm cúng thuở nào.  Cô thở dài, ăn nốt bát canh măng miến và dọn luôn đĩa xào vào bụng.  Ba chung rượu làm cô nóng bừng, cô mở cửa patio bước ra cho thoáng.  Nhưng mới đứng chưa nóng chỗ, thì tiếng ồn ào đã dồn ra ngay bên nách, lão khọm đã rủ các đại ca ra sân.   Lão ngâm liền một khi: điếu thuốc lào nâng cao sĩ diện, thơm mồm bổ phổi diệt trùng lao, tay bật lửa tanh tách.  Cô lật đật rút.  Cô biết, bây giờ lão sẽ huơ đao chém gió mà vẽ ra những là tràng giang đại hải bài cùng sách, chữ cũng văn.  Cô biết, qua ngày mai lão sẽ ra lò công trình biên soạn cả năm dài một ngày 10 tiếng thành bộ sách 20 cuốn.  Cô biết, lão sẽ…

-Ủa, khi nãy mình quên dĩa lá mơ!!  Tiếng Khọm phu nhân nhỏ nhẹ vọng ra. 

-Trời cao đất dầy.  Lão khọm kêu một tiếng thảm thiết.

-Thì bây giờ vào ăn, mọi thức đều gặp nhau trong bao tử mà, Trấn Văn Vương cười cợt. 

Lão khọm dường tức tối, lão phun khói mịt mờ mặt cứ đần ra.

-Thì năm sau làm cầy thiệt nhậu bù.  Năm cầy cậy nhầu khỏi lạc quẻ!  Mắt kiếng chúm chím, lão khọm gườm gườm lẩm bẩm,

-Năm sau, năm sau, …

-Ối!!! Về cúng giao thừa. A ha, Mắt Kiếng phu nhân.  Trấn Văn Vương phu nhân cười khanh khách. 

Ba chàng ngự lâm pháo thủ tan hàng không pháo lệnh, hai bên sân bỗng bặt tiếng.  Cô vù xuống bếp sắp hoa quả bát nhang, chỉ còn một giờ là qua ngày mai.

Mang ly nước lạnh ra bàn cúng cô bật cười.  Ngày mai đã là năm sau, KHỌ..ỌM.

 

Lưu Na

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.