Hôm nay,  

Learning from the Hue Massacre

01/03/201800:20:00(Xem: 14922)

 

   

blank

Dân Huế về nhà sau khi cộng quân bị lính VNCH và Hoa Kỳ đẩy lui trong trận Tết Mậu Thân 1968. (Photo by Central Press/Getty Images)

 

.

 

 

 

Learning from the Hue Massacre

 

 

 

Olga Dror

 

The Battle for Hue, part of the Tet offensive, started with an assault by communist forces in the wee hours of Jan. 30, 1968. The former imperial capital of Vietnam, Hue was defended by the Army of the Republic of (South) Vietnam, local militia units, the United States Marines and the United States Air Force. The core of the communist forces in Hue was the North Vietnamese Army with support from southern communist forces — the National Liberation Front, also known as Viet Cong, and from communist sympathizers, many of whom were former members of the defunct Struggle Movement, organized in Hue in 1965 by Buddhist monks and students, which had led the Buddhist Uprising that was suppressed by the ARVN in 1966. Many Struggle Movement activists fled to the mountains and joined the communists; during the Tet Offensive, they returned to Hue with the communists.

 

.

 

Học Hỏi từ Trận Thảm Sát Huế

 

Tác giả: Olga Dror

 

Bài trên báo New York Times – Mục nhận định VIETNAM '67 - ngày 20 tháng 2/2018

 

Bản Việt dịch: Phan Tấn Hải

 

Trận đánh ở Huế, một phần trong Cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, khởi đầu bằng lực lượng cộng quân tấn công vào những giờ khi trời chưa sáng của ngày 30/1/1968. Huế, nơi từng là thủ đô của thời phong kiến, được bảo vệ bởi quân lực VNCH, các đơn vị địa phương quân, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và Không quân Hoa Kỳ. Nòng cốt của cộng quân tại Huế là quân lực Bắc Việt, với hỗ trợ từ lực lượng cộng quân Miền Nam – Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia, còn gọi là Việt Cộng, và những người cộng sản nằm vùng, trong đó có nhiều người là cựu thành viên của Phong Trào Tranh Đấu, một tổ chức đã biến mất, nguyên tổ chức ở Huế năm 1965 bởi các vị sư và sinh viên, những người đã lãnh đạo cuộc Nổi Dậy Phật Giáo bị quân lực VNCH trấn áp năm 1966. Nhiều nhà hoạt động trong Phong Trào Tranh Đấu đã chạy vào vùng núi và gia nhập cộng quân; trong Cuộc Tổng Công Kích, họ trở về Huế cùng với người cộng sản.

 

.

 

The fighting, which lasted until Feb. 24, was the largest urban engagement of the war. The communists lost an estimated 5,000 combatants, ARVN losses stood at around 400, and the Americans had 216 killed in action. Some 80 percent of the city of Hue was destroyed. But the battle toll also included the sufferings and deaths of civilians.

 

During the communist takeover, the southern communists and the N.V.A. forces organized so-called liberated zones, conducted indoctrination sessions, rationed food, conscripted youth for labor and combat, and identified enemies, and sometimes their family members, in the local population for denunciation and death. Former members of the Struggle Movement who had fled Hue in 1966 and returned with the communists in 1968 were intimately familiar with the city and became instrumental in marking people for execution.

 

Giao chiến, kéo dài cho tới ngày 24/2/1968, là những cuộc giao tranh lớn nhất trong thành phố của cuộc chiến. Cộng quân chết khoảng 5,000 lính, quân lực VNCH mất khoảng 400, và phía Hoa Kỳ có 216 lính tử trận. Khoảng 80% thành phố Huế bị phá hủy. Nhưng trận đánh cũng gây ra đau khổ và chết chóc cho thường dân.

 

Trong thời gian cộng quân chiếm thành phố, Việt Cộng và quân Bắc Việt đã tổ chức các khu vực gọi là vùng giải phóng, mở các khóa tuyên truyền, thực phẩm chia khẩu phần, trưng tập tuổi trẻ đi lao động và tác chiến, và nhận diện các kẻ thù, và đôi khi [nhận diện] thành viên gia đình [kẻ thù], trong khối dân số địa phương để xử án và xử tử. Các cựu đoàn viên Phong Trào Tranh Đấu, những người đã trốn khỏi Huế năm 1966 và trở lại với cộng quân năm 1968, rất quen thuộc với thành phố và đã đóng vai chỉ điểm người để lôi ra xử tử.

 

.

 

Not only were government and military officials massacred, but so were innocent civilians, including women and children, who were tortured, executed or buried alive. After the battle, thousands of people were missing. People did not know where their loved ones were; they roamed the streets, searching, digging and finding bodies. The people of Hue even found corpses in the Citadel and around the emperors’ mausoleums outside of the city.

 

Within a few months, people started to find mass graves. The body count continued to rise with the discovery of more graves through the fall of 1969. By then, the total number of bodies unearthed around the city had risen to some 2,800. The massacre of unarmed civilians on such a scale left a deep scar in the memories of survivors.

 

Bị thảm sát không chỉ quân nhân và công chức, mà còn có các thường dân vô tội, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em, những người bị tra tấn, xử tử hay chôn sống. Sau trận đánh, nhiều ngàn người mất tích. Dân chúng không biết người thân của họ ở đâu; họ lùng trên đường phố, tìm kiếm, đào bới và tìm các xác người. Dân Huế cũng thấy có xác người trong Thành Nội     và quanh các lăng tẩm các nhà vua quá cố bên ngoài thành phố.

 

Trong vòng vài tháng, người ta bắt đầu khám phá các mồ tập thể. Đếm xác nhiều thêm cùng với việc phát hiện thêm các mồ tập thể vào mùa thu năm 1969. Vào lúc đó, tổng số xác chết đào lên quanh thành phố tăng tới khoảng 2,800 xác. Thảm sát thường dân không vũ khí trong mức độ lớn như thế đã để lại một vết sẹo khắc sâu vào trí nhớ người sống sót.

 

.

 

In the decades since, the massacre at Hue has become a touchstone and a flash point for debates about the war, both within Vietnam and in the United States. It began a few months after the battle when Nha Ca, a well-known South Vietnamese writer, wrote an account of the battle, “Mourning Headband for Hue.” It was first serialized in a newspaper and then published as a book in 1969. On the eve of the Tet offensive, Nha Ca had come to her hometown Hue from Saigon for the burial of her father, and she remained there during the battle.

 

In the book, she described the atrocities committed by the communists, but also gave examples of their humanity. She showed the dark and bright sides of American and ARVN soldiers, creating a vivid picture of the terrible plight of the civilians. Describing the atrocities committed by the communists, she lamented the plight of her country, the fate of all Vietnamese who found themselves pawns in the power play between the communist and anti-communist blocs. This book was translated and published in English in 2014 (I provided the translation).

 

Trong nhiều thập niên từ đó, thảm sát Huế đã trở thành một thước đo và là một điểm nhạy cảm cho các cuộc tranh luận về cuộc chiến, cả trong Việt Nam và tại Hoa Kỳ. Nó khởi sự như thế vài tháng sau trận đánh, khi Nhã Ca, một nhà văn Miền Nam VN nổi tiếng, đã viết một hồi tưởng về trận đánh, “Giải khăn sô cho Huế.” Trước tiên là đăng nhiều kỳ trên một tờ báo và rồi in thành sách năm 1969. Một ngày trước Cuộc Tổng Công Kích, nhà văn Nhã Ca đã từ Sài Gòn về quê nhà ở Huế để an táng cha của bà, và bà kẹt lại trong trận đánh đó.

 

Trong sách, bà kể lại các hành vi tàn bạo của cộng quân, nhưng cũng kể ra các hành vi nhân đạo của họ. Bà cho thấy mặt tối và mặt sáng của chiến binh Mỹ và chiến binh VNCH, viết ra một bức tranh sinh động về thảm cảnh kinh hoàng của thường dân. Trong khi kể về sự hung bạo của cộng quân, bà than thở cho hoàn cảnh đất nước, định mệnh của tất cả những người Việt tự thấy trở thành quân cờ trong trò chơi quyền lực giữa khối cộng sản và khối chống cộng. Sách này được dịch và ấn hành trong tiếng Anh hồi năm 2014 (tôi là người dịch ra tiếng Anh).

 

.

 

For many Vietnamese, “Mourning Headband for Hue” remains one of the key commemorations of the massacre and their loved ones. But not everyone sees it this way. When she wrote in 1969, Nha Ca called on her readers to share responsibility for the destruction of their country. But many former South Vietnamese disagree with her willingness to attribute to her compatriots a shared responsibility for the war, which they see as a result of communist aggression by the former North Vietnam.

 

While the discoveries of mass graves unfolded in Hue, the attention of Americans was diverted to the shocking domestic events of 1968: On March 31, President Johnson announced that he would not run for reelection; on April 4, the Rev. Dr. Martin Luther King Jr. was assassinated, an event that provoked days of rioting in American cities; on June 6, Robert F. Kennedy was assassinated; in August, violent clashes between police and protesters accompanied the national convention of the Democratic Party in Chicago; finally, the presidential campaign resulted in the election of Richard Nixon. The fate of the Hue victims did not break through these headlines.

 

Đối với nhiều người Việt, sách “Giải khăn sô cho Huế” vẫn là một trong những bản tưởng niệm chủ yếu cho trận thảm sát và những người thân thương của họ.   Nhưng không phải ai cũng nhìn như thế. Khi bà viết năm 1969, Nhã Ca mời gọi độc giả của bà chia sẻ trách nhiệm đối với những hủy diệt đối với đất nước của họ. Nhưng nhiều người miền Nam VN cũ bất đồng với thiện ý của bà về mời gọi chia sẻ trách nhiệm chung về cuộc chiến, mà họ xem là hậu quả  của cộng sản xâm lăng do Bắc Việt thực hiện.

 

Khi các những nấm mồ tập thể  ở Huế được tìm thấy, người dân Mỹ còn đang chú tâm vào các sự kiện nội địa chấn động trong năm 1968: Vào ngày 31/3/1968, Tổng Thống Johnson loan báo ông sẽ không tái ứng cử; vào ngày 4/4/1968, Mục sư Martin Luther King Jr. bị ám sát, một sự kiện làm bộc khởi nhiều ngày biểu tình ở nhiều thành phố Hoa Kỳ; vào ngày 6/6/1968, Robert F. Kennedy bị ám sát; vào tháng 8/1968, xảy ra xô xát bạo lực giữa cảnh sát và người biểu tình ở đại hội toàn quốc của Đảng Dân Chủ ở Chicago; sau cùng, kết quả là Richard Nixon thắng cử Tổng Thống. Số phận của các nạn nhân ở Huế không chen qua nổi các nhan đề tin tức nêu trên.

 

.

 

Then, even though in Hue local people continued to unearth corpses of missing people and the number of uncovered bodies was rising into the thousands, the news of another tragedy overshadowed Hue again. On March 16, 1968, less than a month after the events in Hue, American soldiers entered the hamlet of My Lai and killed between 300 and 400 of its inhabitants, including children, old men and women. When they found out, Americans were rightly appalled by the actions of their countrymen in Vietnam, and the My Lai victims and the American perpetrators pushed the Hue victims and the communist perpetrators out of the American media and, by extension, out of the attention of the American public and of world opinion.

 

To the extent that Americans paid any attention to the massacre, it was through a partisan, politicized lens. Douglas Pike, a journalist who joined the U.S. Information Agency in Vietnam and later as a State Department employee, was one of the first Americans to call attention to the massacre, and cited it as evidence of the dangers of a communist takeover of South Vietnam. Pike’s view was adopted by President Nixon and hawkish members of Congress to justify avoiding a sudden withdrawal from the war.

 

Kế tiếp, mặc dù cư dân Huế tiếp tục đào thấy xác người mất tích, và số lượng thi thể tìm ra tăng lên nhiều ngàn, tin tức về một thảm kịch khác lại che phủ Huế một lần nữa. Vào ngày 16/3/1968, chưa tới một tháng sau các sự kiện ở Huế, chiến binh Hoa Kỳ tiến vào ngôi làng Mỹ Lai và giết khoảng từ 300 tới 400 cư dân, kể cả trẻ em, người già và phụ nữ. Khi biết chuyện này, người dân Hoa Kỳ một cách chính đáng cảm thấy kinh hoàng vì hành vi của đồng hương của họ tại Việt Nam, và  các nạn nhân ở Mỹ Lai và các hung thủ người Mỹ đã đẩy lùi các nạn nhân ở Huế và các hung thủ cộng sản ra khỏi ánh sáng truyền thông Hoa Kỳ, và do vậy ra khỏi sự chú ý của dư luận Mỹ và thế giới.

 

Trong khi đó, mức độ người Mỹ chú ý tới trận thảm sát Huế lại bị chiếu xuyên qua các lăng kính đảng phái, chính trị hóa. Douglas Pike, một phóng viên vào làm việc ở Sở Thông Tin Hoa Kỳ tại Việt Nam và sau đó là một nhân viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, là một trong những người Mỹ đầu tiên kêu gọi chú ý tới trận thảm sát Huế, và nêu lên như một chứng cớ về sự nguy hiểm nếu cộng sản chiếm toàn bộ Nam VN. Quan điểm của Pike được Tổng Thống Nixon và các vị dân cử Quốc hội diều hâu sử dụng để giải thích cần tránh rút đột ngột ra khỏi cuộc chiến.

 

.

 

Antiwar politicians, in contrast, drew on the work of Gareth Porter, a political scientist and journalist, who argued that the killings in Hue were committed on a smaller scale than reported, merely acts of revenge by an army in retreat. Drawing on Porter’s work, Senator George McGovern accused the Nixon administration of using the events in Hue as a pretext to continue American involvement there. He went as far as to refer to the killings in Hue as the “so-called Hue massacre.”

 

Lack of attention to events in Hue continued after the war. Unlike the My Lai massacre, which is mentioned in most general books about the war and is analyzed in dozens of specialized books published from the 1970s to the present, the events in Hue have not received any serious study and have largely, if not completely, faded from American memory and scholarship.

 

The politicization of the Hue massacre extends beyond Vietnam and the United States. No mention of the massacre occurred in the Soviet press or in any other public forum in 1968 or in later years. The only concerned voice on the Soviet side came from Aleksandr Solzhenitsyn, the Soviet dissident. The situation has not changed in the Soviet Union’s successor state of Russia.

 

Ngược lại, các chính khách phản chiến dẫn ra công trình của Gareth Porter, một nhà báo và là nhà khoa học chính trị, người lý luận rằng thảm sát ở Huế nhỏ hơn mức độ được báo cáo, chỉ là hành vi trả thù khi cộng quân rút lui. Dẫn ra Porter, Thượng nghị sĩ Geprge McGovern tố cáo chính phủ Nixon sử dụng các sự kiện ở Huế như bước dạo đầu để Hoa Kỳ tiếp tục tham chiến. Ông còn đi xa tới mức nói về giết chóc ở Huế bằng nhóm chữ “cái gọi là thảm sát ở Huế.”

 

Sau cuộc chiến, vẫn thiếu sự chú ý về các sự kiện ở Huế. Không giống như trận thảm sát Mỹ Lai, được nhắc tới trong hầu hết các sách tổng quan về cuộc chiến và được phân tích trong hàng chục sách chuyên đề ấn hành từ thập niên 1970s tới bây giờ, các sự kiện ở Huế không được nghiên cứu nghiêm túc và phần lớn, nếu không phải hoàn toàn, đã phai nhạt ra khỏi ký ức và học thuật Hoa Kỳ.

 

Phân cực chính trị về thảm sát Huế mở rộng xa hơn Việt Nam và Hoa Kỳ. Không nhắc nhở gì về trận thảm sát trong truyền thông Xô viết hay trong bất kỳ diễn đàn công cộng nào trong năm 1968 hay các năm sau. Tiếng nói quan tâm duy nhất về phía Xô viết tới từ Aleksandr Solzhenitsyn, một nhà bất đồng chính kiến Xô viết. Tình hình vẫn không thay đổi trong nước Nga, một quốc gia hình thành sau khi Liên Xô sụp đổ.

 

.

 

In 2012, while giving a presentation on the Hue Massacre and Nha Ca’s account of it at an academic conference in Moscow, I was told that we must focus on the atrocities committed by Americans and by their South Vietnamese “puppets.” I expressed agreement that we must and will discuss American atrocities, but that we should not overlook what the other side did. No, I was told, the communists fought for the right cause and we must focus on the American perpetrators, an exchange that was reported in the conference’s proceedings. Out of 50 or so people in the room, no one voiced support for my view; later, it was related to me that there was no need for my “Western objectivity.”

 

As a historian, I’ve seen an odd confluence of American and Soviet/Russian academic perspectives on the massacres and a Soviet/Russian-American alliance, if not intentional, in accepting Hanoi’s version of the war. American scholarship has focused largely on either the American side of the war or the North Vietnamese perspective; either way, America’s erstwhile ally has been largely ignored. South Vietnam, whose many citizens fled Vietnam and found a new home in the United States, was pushed to the margins, if not completely off the pages, of postwar narratives, and meanwhile the former enemy was romanticized.

 

Năm 2012, trong khi tôi trình bày về Thảm Sát Huế và tường thuật của Nhã Ca về thảm sát đó trong một hội nghị học thuật ở Moscow, người ta nói rằng chúng ta phải tập trung vào các hành vi tàn bạo thực hiện bởi người Mỹ và “các búp bê” Nam Việt Nam của họ. Tôi nói rằng đồng ý là chúng ta phải và sẽ thảo luận về các hành vi tàn bạo của Mỹ, nhưng chúng ta không nên bỏ qua những gì phía bên kia đã làm. Người ta nói với tôi rằng Không, rằng người cộng sản chiến đấu vì chính nghĩa và chúng ta phải tập trung về các hung thủ người Mỹ, một đối thoại như thế đã được ghi lại trong báo cáo hội thảo. Khoảng 50 người trong phòng lúc đó, không ai lên tiếng ủng hộ quan điểm của tôi; sau đó, tôi bị xếp loại rằng không cần tới “quan điểm khách quan Tây phương” của tôi.

 

Trong cương vị sử gia, tôi đã thấy một giao điểm kỳ dị của các quan điểm học thuật Hoa Kỳ và Xô viết/Nga về các trận thảm sát, và một liên minh Hoa Kỳ-Xô viết/Nga, nếu không phải là cố ý, trong việc chấp nhận cách giải thích của Hà Nội về cuộc chiến. Học thuật Hoa Kỳ đã tập trung phần lớn hoặc về phía Hoa Kỳ trong cuộc chiến hoặc quan điểm Bắc VN; dù cách nào đi nữa, người cựu đồng minh của Mỹ đã phần lớn bị bỏ quên. Nam Việt Nam, nhiều công dân từ đó đã trốn khỏi VN và tìm một nơi cư trú mới tại Hoa Kỳ, đã bị đẩy ra bên lề, nếu không phải là bị đẩy hoàn toàn ra ngoài các trang giấy, của các truyện kể hậu chiến, và trong khi đó cựu thù lại được lãng mạn hóa.

 

.

 

Putting the United States front and center as the only perpetrator of the war denies agency to the South Vietnamese who did not want to live under communists and who fought for this cause, and it simultaneously conceals the fact that expelling Americans was only the first step of bringing the South under the sway of the North. Hanoi always insisted that the unified Vietnam would be a socialist country. Thus, even in the context of the Cold War, it was a civil war between North and South Vietnam for the future of their states.

 

The American appropriation of the war translated even to the analysis and representation of atrocities and other wrongdoings. But without discussing the wrongs committed by all sides, no true reconciliation or study of history is possible. To be fair, the situation in the United States has started to change, however slowly, as a new generation of scholars trained in the Vietnamese language and having genuine interest in all sides of the conflict are developing the field beyond the America-centric focus.

 

Việc đặt Hoa Kỳ ra phía trước và chính giữa như hung thủ duy nhất của cuộc chiến đã bác bỏ chức năng của Nam Việt Nam, những người không muốn sống dưới cai trị của cộng sản và những người chiến đấu cho chính nghĩa [chống cộng], và như thế đồng thời che giấu sự kiện rằng đầy lui người Mỹ chỉ là bước đầu tiên mang Miền Nam vào vòng cai trị của Miền Bắc. Hà Nội luôn luôn nói rằng một Việt Nam thống nhất phải là một quốc gia xã hội chủ nghĩa. Như thế, ngay cả trong khung cảnh Chiến Tranh Lạnh, đây là một cuộc nội chiến giữa Nam và Bắc Việt Nam về tương lai các chế độ của họ.

 

Việc Hoa Kỳ tài trợ cho cuộc chiến được diễn dịch ngay cả cho việc phân tích và thể hiện của các hành vi tàn bạo vá các sai lầm khác. Nhưng không thảo luận về các sai trái từ mọi phía, sẽ không thể có hòa giải thực sự hay nghiên cứu lịch sử thực sự. Để công bằng, tình hình tại Hoa Kỳ đã bắt đầu thay đổi, cho dù là chậm, khi một thế hệ mới các học giả được học tiếng Việt và có quan tâm thực sự từ mọi phía của cuộc chiến đang phát triển lĩnh vực [nghiên cứu] vượt qua cái nhìn tập trung về Hoa Kỳ.

 

.

 

This is a much-needed change for the Vietnamese sides as well. As the United States and Vietnam pursue their reconciliation agenda, it is incumbent on American scholars to probe more deeply the experience of southern Vietnamese during the war. Nor can reconciliation come from the victor’s syndrome as currently practiced by the Socialist Republic of Vietnam — namely, we won, so let’s celebrate our victory and forget about the losers. It can come only through a dialogue and discussion of crimes committed by both sides.

 

Many Vietnamese in Vietnam and in the Vietnamese diaspora still want and need to mourn their loved ones lost in the Hue massacre. They cannot do it in Vietnam. During the war, North Vietnam and the communist forces in the South did not recognize the massacre and did not punish any of the perpetrators. Neither has postwar Vietnam recognized the massacre, preferring to ignore it or call it a fabrication. During commemorative events of the Tet offensive in Vietnam, the Hue massacre does not appear.

 

Đây cũng là một thay đổi rất cần thiết cho mọi phía của người Việt. Trong khi Hoa Kỳ và Việt Nam theo đuổi nghị trình hòa giải, các học giả Hoa Kỳ có trách nhiệm nghiên cứu sâu hơn về kinh nghiệm của người Miền Nam VN trong cuộc chiến. Cũng thế, sẽ không thể có hòa giải từ hội chứng người chiến thắng như kiểu nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay – kiểu là, chúng ta thắng, vậy hãy ăn mừng chiến thắng của chúng ta và quên những kẻ thua trận đi. Hòa giải có thể chỉ tới xuyên qua đối thoại và thảo luận về các tội ác thực hiện ở cả hai phía.

 

Nhiều người Việt tại Việt Nam và ở hải ngoại vẫn còn muốn và cần thương khóc người thân của họ đã mất trong trận thảm sát Huế. Họ không thể làm như thế tại Việt Nam. Trong thời chiến, Bắc Việt và cộng quân ở Miền Nam không công nhận có thảm sát Huế và đã không trừng trị bất kỳ ai trong các hung thủ. Chính phủ Việt Nam hậu chiến cũng không công nhận có thảm sát, chỉ muốn lờ đi và gọi đó là bịa đặt. Trong các sự kiện kỷ niệm cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân ở Việt Nam, không hề nói gì về thảm sát Huế.

 

.

 

The monopolization of the “crime zone” by the United States contributes to modern Vietnam’s obliteration of the communists’ own wrongdoings. A sense of history is an important factor in forming a country and maintaining one’s identity, but many students in Vietnam dismiss the study of their own history, at least in part because they understand how limited they are in their access to documents and other resources and how constrained they are in their interpretations of it. This encourages distrust of the government, which will grow as more materials challenging the party-line version of history appear. I grew up in the Soviet Union, and I know firsthand how damaging it was for us to maintain a mandatory veneer in which we could not believe. Given technological advancements, Vietnam faces a more formidable task than did the Soviet Union in keeping its population at bay.

 

Reconciliation and inclusive historical narratives are also necessary for Americans. Many Vietnamese who lost their relatives in Hue and then lost their country are now an integral part of American society. Mourning what happened in Hue reminds us Americans of our self-absorption in how we think about our role in the war and our unwillingness to learn more about “others,” which even today haunts American policies toward other countries.

 

.

 

Olga Dror, an associate professor at Texas A&M University, has published a study and translation of Nha Ca’s “Mourning Headband for Hue.” She is the author of the forthcoming monograph “Making Two Vietnams: War and Youth Identities, 1965-1975.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm, 2024, trong phiên tòa xét xử bị cáo, tức cựu Tổng thống Donald Trump, liên quan các khoản chi phí cho nữ diễn viên phim khiêu dâm Stormy Daniels dưới dạng tiền bịt miệng, có một cựu công tố viên, bộ trưởng tư pháp từ Flordia đến tòa New York. Bà ngồi bên dưới theo dõi để ủng hộ Trump. Đó là Pam Bondi. Sau khi bồi thẩm đoàn phán quyết Trump có tội trong 34 tội danh, Bondi đã xuất hiện trên Fox News, cùng với Kash Patel, phát biểu rằng “một niềm tin rất lớn đã bị mất vào hệ thống tư pháp tối nay.” Bà còn nói thêm: “Người dân Mỹ đã nhìn thấu điều đó.”
Chiều thứ Sáu, chúng tôi ăn trưa với một người bạn mới ở Huntington Beach. Không biết vì men bia hay vì chọn quán giữa một thành phố “đỏ”, câu chuyện đang nhẹ nhàng bỗng rẽ thẳng vào chính trường. Nhắc đến những gì xảy ra kể từ ngày tổng thống Trump nắm quyền sinh sát, cô bạn tôi đề cập đến vật giá leo thang, vừa lạm phát vừa thuế quan, kinh tế bất ổn, đời sống bất an… Anh bạn mới của chúng tôi nghe đến đây lên tiếng cắt lời: “Dẫu có thế, so với nhiều người, nhiều xứ khác, người Mỹ vẫn còn đang sống trong may mắn. Và chúng ta nên biết ơn điều đó.” Anh khiến tôi liên tưởng đến thuyết “dân túy tàn bạo”, được Jay Kuo nhắc đến trong bài báo mới đăng của Ông trên Substack tuần qua.
Tuần trước, tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Vũ Kim Hạnh được chia sẻ lại qua Facebook. Bài viết có tựa đề là "Cơ hội vàng ở Mỹ sau mức thuế đối ứng 20%", trong đó bà nhắc riêng về kỹ nghệ xuất cảng gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ và thế giới. Trước khi đi vào chi tiết của bài viết, có thể nhắc sơ về bà Vũ Kim Hạnh ắt đã quen thuộc với nhiều người trong nước. Bà từng là Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ, cũng như nằm trong nhóm sáng lập tờ tuần báo Sài Gòn Tiếp Thị, từng là những tờ báo khá thành công tại Việt Nam.
Franklin D. Roosevelt (1882-1945), Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 32 và là vị tổng thống Mỹ duy nhất phục vụ hơn 2 nhiệm kỳ, đã từng nói rằng, “Tự do của nền dân chủ không an toàn nếu người dân dung túng sự gia tăng của quyền lực cá nhân tới mức trở thành mạnh hơn chính nhà nước dân chủ đó. Điều đó trong bản chất là chủ nghĩa phát xít: quyền sở hữu của chính phủ thuộc về một cá nhân, một nhóm người, hay bất cứ thế lực cá nhân nào đang kiểm soát.” Lời cảnh giác đó của TT Roosevelt quả thật đã trở thành lời tiên tri đang ứng nghiệm trong thời đại hiện nay của nước Mỹ. Tổng Thống Donald Trump trong nhiệm kỳ đầu và gần 8 tháng của nhiệm kỳ hai đã thể hiện rõ ý chí và hành động của một nhà lãnh đạo muốn thâu tóm mọi quyền lực trong tay mình bất chấp những việc làm này có phá vỡ nền tảng tự do và dân chủ mà nước Mỹ đã nỗ lực không ngừng để tạo dựng và giữ gìn trong suốt hai trăm năm mươi năm qua hay không!
Từ lâu trong chính trị Mỹ vẫn tồn tại một quy tắc bất thành văn, khi thì nói lên to rõ “chúng ta tốt đẹp hơn như thế này,” hoặc có khi chỉ thì thầm, nhẹ nhàng, rằng đảng Dân Chủ không nên sa vào bùn lầy. Nhiều thập niên qua, “quy tắc” này đã định hình cả vận động tranh cử lẫn cách cầm quyền lãnh đạo. Tổng thống Barack Obama, bằng sự điềm tĩnh, được xem là bậc thầy về nghệ thuật này, ngay cả khi Donald Trump mở màn thuyết âm mưu “giấy khai sinh giả.” Tổng thống Joe Biden cũng vậy. Ông lèo lái đất nước sau đại dịch bằng chiến lược đặt niềm tin vào sự văn minh, đoàn kết, tin rằng lời kêu gọi phẩm giá có thể giữ thăng bằng cho con thuyền trong cơn chao đảo vì sóng dữ.
Trong nhiều tháng qua, các tài khoản chính thức của Bạch Ốc và Bộ Nội An trên mạng X liên tục tung ra hình ảnh và video (meme) dị hợm: từ ảnh ghép kèm âm thanh chế giễu, những đoạn đăng kiểu TikTok, cho đến tranh vẽ bằng trí tuệ nhân tạo. Đây không phải trò vui của vài nhân viên rảnh rỗi, mà là một chiến dịch có chủ ý, lặp đi lặp lại, như muốn răn: ai mới thực sự được coi là người Mỹ. Trang NPR ngày 18 tháng 8 nhận định: “Các tài khoản chính thức của chính quyền Trump đang khai thác đủ kiểu meme, hình ảnh AI với giọng điệu đầy thách thức trong các bài đăng trên mạng xã hội.”
Trước khi quay lại cùng cuộc họp song phương giữa Trump và Putin tại Alaska, hãy quay lại những cuộc họp giữa Donald Trump và lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un trong nhiệm kỳ đầu của Donald Trump. Lần đầu tiên, một đương kim tổng thống Hoa Kỳ đã hạ mình sang Châu Á đến ba lần, lần đầu tại Singapore, rồi Việt Nam và cuối cùng ngay tại khu phi quân sự giữa Nam-Bắc Hàn, để gặp và nâng cao vị thế một tay "Chí Phèo" cộng sản mặt sữa nhưng khét tiếng độc ác lên vị thế chính thức ngang hàng với Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế.
Trong căn phòng trắng, lổm chổm những mảng phù điêu mạ vàng trên trần nhà và tường, một người đàn ông mảnh khảnh, nhanh nhẹn bước ra giới thiệu trước ống kính báo chí món quà đặc biệt ông cố ý mang theo tặng Tổng thống Donald Trump. Đó là lần hiếm hoi CEO của hãng Apple, Tim Cook, xuất hiện trong trang phục sơ mi cà vạt vest đen. Ngay cả trong những lần ra mắt sản phẩm iPhone mới hàng năm, vốn được xem là sự kiện quan trọng bật nhất của Apple, người ta cũng không thấy Cook phải bó mình trong bộ lễ phục trịnh trọng như vậy. Tim Cook đã mang đến cho các tín đồ của trái táo một sự bất ngờ, giống như 15 năm trước, ông xuất hiện trên tạp chí Out ở vị trí đầu bảng xếp hạng Power 50, một danh sách xếp hạng những cá nhân đồng tính nam và đồng tính nữ có ảnh hưởng nhất vào thời điểm đó.
Trong những tháng qua, thảm họa đói của người Palestine ở dải Gaza đã làm thế giới rúng động. Tin tức về trẻ em Palestine bị bắn chết trong khi cố len lỏi tới rào sắt để nhận thức ăn viện trợ được truyền đi; nhiều người đặt câu hỏi về lương tri của những kẻ tổ chức “công tác nhân đạo” này (công ty Gaza Humanitarian Foundation do chính phủ Trump hậu thuẫn). UN ước tính có khoảng 1,400 người Palestine đã chết khi tìm cách nhận thực phẩm cứu trợ. Vào tháng 12 năm 2023, Nam Phi đã đệ đơn kiện Israel lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cáo buộc quốc gia này phạm tội diệt chủng ở Gaza. Một số quốc gia khác tham gia hoặc bày tỏ sự ủng hộ đối với vụ kiện, bao gồm: Nicaragua, Bỉ, Colombia, Thổ Nhĩ Kỳ, Libya, Ai Cập, Maldives, Mexico, Ireland, Chile Palestine…
Trí nhớ của một cộng đồng không chỉ mất đi khi thời gian làm phai mờ, mà có khi có bàn tay cố tình tháo gỡ. Không cần nhiều bút mực, chỉ cần bỏ vài dòng, thay một chữ, hoặc xóa một đoạn – câu chuyện lập tức đổi nghĩa. Lịch sử hiện đại đã nhiều lần chứng kiến điều đó. Năm 1933, chính quyền Quốc xã Đức đốt sách giữa quảng trường, thay lại giáo trình, đặt viện bảo tàng và văn khố dưới quyền Bộ Tuyên Giám. Joseph Goebbels nói: “Chúng ta không muốn người dân sử dụng cái đầu. Chúng ta muốn họ hành xử theo cảm tính.” Tám thập niên sau, ở một góc khác của địa cầu, những bản thảo của Trương Vĩnh Ký – người khai sáng nền quốc ngữ Việt – bị loại khỏi thư viện vì bị gán là “tay sai thực dân”. Sau 1975, chính quyền cộng sản xét duyệt văn hóa trên toàn quốc: các tác phẩm học thuật bị cấm; bị đốt, tên tuổi các học giả và nhà văn miền Nam biến mất khỏi mọi tiến trình văn hóa. Tại Hoa Kỳ ngày nay, sự thật không bị đấu tố – nhưng bị biên tập lại.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.