Hôm nay,  

Người Phu Quét Chợ

07/03/201800:00:00(Xem: 5129)
Thành Lacey thoát dịch
 

Giới thiệu tác giả: Đây là quyển tiểu thuyết, được dịch từ Pháp văn, có tựa đề Anh ngữ là: “Balzac and The Little Chinese Seamstress” – NXB Anchor Books, New York - của tác giả người Hoa tên là Dai Sijie viết tại Pháp năm 2000.  Ông sinh tại Trung quốc năm 1954.  Dai Sijie là một nhà làm phim và bản thân từng bị đi cải tạo từ năm 1971 đến 1974.  Ông rời Trung quốc sang Pháp năm 1984, sống và làm việc tại Pháp cho đến nay.  Quyển tiểu thuyết đầu tay này của ông, chỉ trong sớm chiều,  gây tiếng vang  lớn tại Pháp năm 2000, và ngay tức thì trở thành quyển tiểu thuyết bán chạy nhứt và đoạt được năm giải thưởng.  Bản quyền của quyển tiểu thuyết này đã được bán đi mười chín quốc gia và đang được quay thành phim.

Đây là một quyển truyện “làm cho độc giả phải say mê về ma lực thu hút của văn chương và sự huyền diệu của một cuộc tình lãng mạn của hai thanh niên thanh thị xấu số bị đày đi cải tạo ở một vùng núi rừng hẻo lánh trong thời Cách Mạng Văn Hoá của Trung Cộng. Tại đây hai chàng ta gặp cô con gái của ông lão thợ may vùng này và tình cờ khám ra được một số tác phẩm văn chương cổ điển của phương Tây được dịch sang Hoa ngữ.  Trong khi tán tỉnh cô bé thợ may, hai chàng có dịp ngốn nghiến các tác phẩm ngoại quốc “loại văn hoá đồi trụy” bị cấm đọc này và đã đắm mình vào thế giới xa lạ trong các tác phẩm đó  rồi quên đi được thực tại phủ phàng, ác nghiệt,  đang bao quanh mình.”  -  Anchor Books ‘s Preview.

Theo lời phê bình của The New York Times thì: “Văn của Dai Sijie thắm thiết, xót xa, đầy hài hước và lãng mạn trử tình.”  Tiếp đây là đoạn tả về cái thân phận xót xa của một người giảng đạo sống trong xã hội và chế độ của chủ nghĩa Tam Vô.  Một chủ nghĩa  phủ nhận những giá trị tinh thần cao quý của loài người để  chấp nhận lối sống như loài chồn cáo, khỉ vượn.

 

Đoạn này tác giả nói về chung cuộc bi thảm cuộc đời của một người phu quét chợ mà trước kia là một thầy giảng Thiên Chúa giáo. Sau khi bị bọn chính quyền địa phương phát hiện ra lý lịch của mình, ông đã bị cấm giảng đạo hơn hai mươi năm qua và bị hình phạt phải làm một người phu quét đường cho đến suốt đời.

Trang 165 -  Ở đoạn này tác giả đang đi tìm một bác sĩ phụ khoa để giúp cho cô thợ may bạn gái của anh bạn thân của mình phá thai thì nghe có người nói ông gìa quét chợ có thể biết nơi đó:

... Đến bửa trưa ngày thứ ba, trong sự thất vọng hoàn tòan vì không tìm đưực một bác sĩ phụ khao, tôi chuẩn bị trở về vùng rừng núi  Rồi bổng nhiên, tôi nhớ đến ông già trước kia là thầy giảng đạo.

Tôi không biết tên của ông nhưng nhớ có làn thấy ông bửa xem phim với mái tóc bạc phơ bay bồng trong gió.  Hai tôi thấy có cảm tình với phong thái ngoại diện của ông.  Ở ông có một vẻ vì cao qúy ngay cả ông đang bận bộ đồ xanh công nhân để quét đường với cây chổi có cái cán dài ngoằn.  Ngay cả khi ông bị chọc phá và phun nước miếng bởi đám dân chợ, kể cả mấy thằng tiểu yêu tuổi lên năm.  Ông bị cấm giảng đạo cả hai mươi năm qua.  Mỗi khi tôi nhớ tới ông tôi lại nhớ đến câu chuyện về nhà ông bị lục soát bởi đám Vệ binh đỏ.  Chúng tìm được dưới gối ông nằm một quyển sách bằng tiếng nước ngòai mà bọn chúng mù tịt không biết là sách gì.  Sau đó chúng phải gởi cuốn sách mà chúng lấy của ông đó lên tận Đại học Bắc kinh để truy tìm xuất xứ rồi mới biết đó là quyển Kinh Thánh bằng chử La tinh. Sau khi bị lộ là một tín đồ Công giáo thì ông già khốn khổ này bị bắt buộc phải đi quét chợ suốt đời. Lúc mà hai tôi gặp ông thì ông là một hình ảnh luôn thường trực có mặt mỗi ngày trên đường xá ở khu phố này.

Hỏi chuyện với một nhà giảng đạo về đề tài phá thai coi như là một xúc phạm lớn.  Tôi không biết có phải vì tình cảm riêng tư mà đầu óc của tôi trở nên lệch lạc không. Rầi tôi mới nhớ là tôi không gặp ông quét chợ đầu tóc bờm xờm quét đường giống như cái maý này đã ba ngày rồi.

Tôi hỏi người bán thuốc lá xem có phải là ông đã hết hạn bị phạt lao động chưa. Người đó trả lời:

- Không. Ổng đang chờ chết.  Thật là tội.

-  Ổng bị gì vậy?

-  Ung thư.  Hai đưá con trai của ổng tới đây để thăm ổng.  Họ đã đem ổng vô nhà thương .

Nghe như vậy tôi không biết tại sao tôi quay phắt người chạy phăng đi.  Tôi chạy như điên lên đầu trên con lộ tới bên kia phố .  Khi tôi tới khu nội chẩn thì tôi mệt muốn đứt hơi nhưng tôi biết mình phải làm gì.  Tôi sẽ đến cạnh ông quét chợ với hy vọng cuối cùng để nghe lời khuyên của ông.

Khi đã ở trong bịnh viện tôi sửng sờ choáng ván bởi đủ thứ muì trộn lại của thuốc sát trùng, của mùi phân và nước tiểu cùng mùi xào nấu thức ăn.  Nơi này giống như trại tỵ nạn thời chiến tranh, phân nữa khu biến thành chỗ nấu ăn.  Nào là chảo, thớt, ấm nước, rau,trứng, lọ muối, chai xì dầu, chai dấm, nằm tùm lung.  Chúng nằm giữa giường các bịnh nhân và giữa các chậu rữa và kệ sắt treo các chai truyền máu.   Ở giờ ngọ này phần lớn các bịnh nhân lum khum xào nấu mấy chảo thức ăn, hoặc lấy đủa khuấy trộn nồi mì hay bận rộn với chảo chiên trứng đầy dầu mỡ.

Cái ồn ào náo loạn là tôi sửng sờ.  Tôi không ngờ là bịnh viện thành phố lại không có bếp để người bịnh phải tự lo ăn uống cho mình dù bịnh nặng hay dù họ bị cụt tay cụt chưn.  Chân tay bó bột có màu xanh , đỏ , đen, đầu vải băng rớt lònh thòng ra ngoài, họ hụp lên hụp xuống trong hơi nườc nóng từ nồi nấu. Trông mấy người bịnh lu bu, cà thọt tới cà dựt lui, trông đến tức cười.

Tôi tìm ra ông cụ giảng đạo đang hấp hối trong một khu gồm có sáu giường bịnh.  Ông đang được vô nước biển.  Vây quanh ông là hai người con trai và con dâu, họ cở chừng bốn mươi tuổi.  Một bà cụ mặt đầy nước mắt đang nấu thức ăn trên cái lò nấu bằng dầu cặn đặt ở chân giường của ông.  Tôi hỏi: “ Bà bác là vợ của ông phải không?”

Bà gật đầu.  Tay của bà run đến nổi tôi phải đập dùm bà mấy cái trứng vào chảo.

Hai đứa con trai mặc đồ xanh công nhân kaki kiểu Mao gài nút tới tận cổ.  Họ có dáng vẻ cuả mấy người phụ lo tống táng hay công nhân viên nhà nước gì đó nhưng trông điệu bộ lại đầy vẻ lăng xăng lích xích rán làm cho cai máy thâu băng củ xì chạy.  Cái máy đầy rỉ sét, kêu két két, cọt kẹt, sơn máy tróc ra từng miếng.

Rồi bổng nhiên một tiếng kêu ken két xé lổ tai khi cái máy chạy được.  Nó kêu lớn tới nổi làm cac bịnh nhân khác trong phòng giựt mình buông rớt chén đang cầm làm đổ tung toé thức ăn lên khăn trải giường.

Anh con trai nhỏ tuổi ra dấu cho bịnh nhân yên lặng trong khi người anh mình đưa cái mi-crô lên môi của ông truyền giáo để thu.

  “Ba.  Nói dùm vài tiếng đi ba.” Hắn năn nỉ.

Chùm tóc bạc trắng của ông cụ đã rụng gần hết và khuôn mặt của ông bị biến dạng đến nhìn không ra.  Ông chỉ còn là cái dư ảnh của lúc trước, giờ thì chỉ còn da bọc xương.  Quá yếu, không cựa quậy nổi, rõ ràng là đang bị đau đớn, ông cố gắng mở mí mắt.  Dấu hiệu hồi tỉnh này làm mọi người bu quanh giường ngạc nhiên và vui mừng.  Cái mi-crô lại đưa lên môi ông lần nữa.  Tiếng cái máy chạy nghiến ken két như tiếng giày đinh đạp trên mảnh kiếng bể.

“Ba cố gắng dùm đi ba,” anh con trai năn nỉ. “Tụi con muốn thâu tiếng nói của ba lần cuối để cháu ba còn gì đó để nhớ ông của chúng.”

“Nếu ba lặp lại được vài lời nói của Mao Chủ tịch thì quá hay.  Ba chỉ cần rán lặp lại một vài lời, một khẩu hiệu cũng là quá tốt.  Chúng sẽ biết ông của chúng không hề là kẻ phản động và vui lòng nhắm mắt khi  ra đi.”

Có tiếng run run từ môi ông đang có nói nhưng không ra được âm nào cả.  Cứ mấy phút như vậy, ông cố gắng nói nhưng chỉ thều thào không ra tiếng.  Độ phút sau, ông cố gắng nói gì đó mà không ai nghe và hiểu được.  Ngay cả bà cụ vợ ông cũng không biết chồng minh muốn nói gì.

Rồi ông lại rơi vào cơn mê.

Anh con trai lấy cụôn băng ra, rồi cả nhà cố lắng tai  nghe lại lời nhắn nhủ khó ai đóan ra này của ông.

Anh con cả kêu lên:  “Bằng tiếng Latinh.  Ba đó, ổng trăn trối lời cầu xin cuối cùng bằng tiếng Latinh.”

“Ông là như vậy đó.” Bà vợ nói, tay lấy khăn mui-soa ra lau mồ hôi trên tráng của ông cụ thầy giảng.

Ngay lúc đó, tôi nhảy bật dậy chạy ra phiá cữa mà không nói lời nào hết.  Tôi mới chợt thấy cái áo choàng trắng của bác sĩ phụ khoa đứng như con ma ngay cữa ra vào;  chập chờn mờ ảo.  Tôi thấy ông ta vừa rít hợi thuốc cuối cùng, phun khói ra, búng cái tàn thuốc rồi biến đi đâu mất.

Tôi chạy băng qua mấy căn phòng, đá đổ mấy chai nưức xì dầu , trợt chân khi đạp lên cái chão không ai bỏ trên sàn nhà .  Khi tôi chạy tới cữa thì không thấy dấu vết gì của ông y sĩ nữa. ...

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.