Hôm nay,  

MỘT NGƯỜI ANH

21/03/201807:56:00(Xem: 8786)

MỘT NGƯỜI ANH

 

Nguyễn-đại-Thuật

 

                    Gia đình tôi được đi định cư ở Pháp đã được tám năm. Vào năm thứ ba tôi nhận được tin về Tân từ một người bạn cùng xóm đang sống ở Việt-nam.Trong thư người bạn viết:” Tân mới được ra khỏi tù cải-tạo, bịnh rất nặng phải vảo nhà thương để mổ. Trại cải tạo cho Tân về nhà để chữa trị. Anh em bạn bè ai cũng khổ, có đóng góp giúp Tân nhưng chẳng được bao nhiêu, nên có ý-kiến nhờ người bạn viết thơ yêu cầu tôi giúp Tân tài chánh để trang trải chi phí bịnh-viện; họ nghĩ tôi sống ở nước ngoài nên kinh-tế có thể khá hơn.

 

Gia-đình tôi vượt biển và được tàu Pháp vớt, cho tam trú tại Singapour ba tháng trước khi được Cao ủy tị-nạn làm thủ tục cho đi Pháp.

 

Tôi được định cư tại thành phố Dijon, cách xa Paris khoảng ba trăm cây số.Tôi và vợ tôi may mắn được nhận làm việc trong một cơ sở sản xuất sữa bò sau năm tháng đến Pháp.

 

Tuy rất mừng khi biết Tân được ra khỏi tù cải-tạo, nhưng tôi cũng buồn và lo lắng cho bịnh tình và hoàn cảnh thiếu thốn của Tân.

 

Biết tôi chuẩn bị lên Paris để gởi tiền cho Tân, vợ tôi đưa nửa tháng lương của nảng để góp vào số tiền tôi muốn gởi. Hai vợ chồng tôi mới đi làm nên đời sống chưa ổn định lắm, tuy nhiên có đóng góp của vợ làm tôi yên tâm vì số tiền gởi đi không đến nỗi ít quá, hy vọng Tân có thể giải quyết được tiền bịnh viện và thuốc men.

 

        

 

Lúc bấy giờ, người nào muốn gởi tiền về Việt nam đều phải lên Paris, vì đó là nơi duy nhất có một cơ-sở ngoại vi của tòa đại-sứ Việt-Cọng làm công việc nầy.Tôi lấy chuyến xe lửa khởi hành từ ga Dijon lúc 6h sáng thứ bảy để đến Paris 9 giờ, hy vọng chuyển tiền xong, trể nhất là 3 giờ chiều, sẽ lấy chuyến xe lửa trở về lúc 6 giờ.

 

Phía truớc cơ sở chuyển tiền Sicona đã có ít nhất là mười nguời đang sắp hàng chờ đến phiên mình.      

 

Người đàn bà ngồi làm giấy tờ nhận và chuyển tiền không còn trẻ, ước chừng trên bốn mươi tuổi. Hình như tôi đã gặp bà ta ở một nơi nào đó. Đến khi chỉ còn hai khách hàng nữa đến phiên tôi, tôi có dịp quan-sát bà kỹ hơn.Tôi nghĩ rằng tôi lầm, tôi không tin bà ta là Mỹ. Có lẽ người giống người thôi. Còn một người nữa trước tôi.Tôi hơi hồi hộp và quan sát bà kỹ hơn khi bà nguớc lên nói chuyện với người khách. Đỉnh vành tai trái của bà khuyết đi một phần thịt, như một vết cắt.Tôi lắng nghe giọng nói của bà, cái giọng Quảng-nam đặc sệt.Tôi biết tôi không lầm, chính là Mỹ, người tôi biết trước đây khi còn ở quê nhà.

 

 Có lẽ bà không lưu ý đến khách hàng nhiều nên bà không nhận ra tôi, tôi cũng cố tình kéo sụp vành mũ che trán để bà không nhìn rõ mặt. Thay vì viết tên người nhận tiền là Tân, tôi gởi qua tên của người bạn.

 

******************

 

Gia-dình tôi và gia-đình Tân cùng sống chung trong một khu phố. Nhà tôi ở đầu hẻm, nhà Tân ở cuối hẻm.

 

Tân lớn hơn tôi năm tuổi nên tôi gọi Tân bằng anh. Ba của Tân phục vụ trong quân đội,cấp bậc hạ-sĩ, làm việc tại đồn Quân-cảnh Đa-nẵng. Mẹ Tân bán nước mía ngoài chợ Hàn. Bà có tật bẩm-sinh, một chân cao, chân thấp nên Tân hàng ngày giúp mẹ ngoài chợ. Nhiệm vụ của Tân là đi ra bến đò sông Hàn mua mía cây của dân buôn từ quê chở ra bán, rồi vác mía đem về cho mẹ.

 

Liên tiếp mấy năm thi bằng trung-học đệ nhất cấp không có kết quả,Tân nản nên không muốn tiếp tục thi nữa. Năm học đệ-tứ, tôi rũ Tân cùng nộp đơn thi lấy bằng với tôi.Tân đồng ý.Tân lấy bài học của tôi để ôn bài lại.

 

Ba mẹ Tân chỉ có anh là con duy nhất. Tôi là con trai thứ hai trong gia-đình có ba chị em gái. Tân hiền lành, chất phát nên ba mẹ tôi rất thương.Tôi cũng vậy, rất thương mến anh.Thỉnh thoảng tôi nghe anh hỏi mẹ tôi mỗi khi anh đi ngang qua trước nhà:”Cô ơi, thằng Ti có nhà không cô, hắn đi mô mà hai bửa ni con không thấy? Cái giọng nói đầy âm Quảng-nam mang âm sắc thân ái và lo lắng của anh làm tôi suốt đời không quên được. Tôi nghe tiếng mẹ tôi trả lời: “Em nó đang ở trong nhà, năm nay thi, bài vỡ nhiều, đi học về là ở miết trong phòng để "gạo"bài.” “- Rứa mà con lo nó bịnh.” Anh trả lời mẹ tôi.

 

Tôi nhớ mỗi khi ba tôi đi đâu về khuya thường hỏi mẹ tôi: “Mấy đứa nhỏ ngày ni có chi lạ không mình? Hôm ni đi sớm quá, chưa nhìn thấy mặt đứa mô hết.” Giọng hỏi của ba tôi cũng như giọng hỏi của anh, đầy ắp thương yêu!

 

Đôi khi tôi nghe hai đứa em gái tôi nhỏ to với mẹ: “Mẹ ơi! Anh Ti nhà mình được anh Tân con bà bán nước mía thương quá hả mẹ, anh ấy cho anh Ti nhà mình uống nước mía thả cửa, anh Tân chẳng bao giờ cho hai chị em con một chút nào hết. Nghe câu nói phân bì của hai đứa em, tôi mỉm cười hãnh diện. Anh quan tâm đến tôi rất nhiều, anh nhắc tôi mỗi ngày nên dành ít thời gian rỗi rảnh để tập thể dục, cuối tuần nên đi tắm biển, buổi tối nên ngủ sớm để có sức khỏe..,

 

Tôi đã có lần nghe mẹ tôi hỏi: “Sao anh thương thằng Ti quá vậy?”

 

Anh cười hiền lành: “Trong nhà con không có anh em chi hết, con chỉ có một mình nên thương Ti như em vậy.” Mẹ tôi tiếp lời:” Vậy anh đem nó về bên anh nuôi đi.Tôi cho không anh đó! Rồi cả hai nguời cùng cười.

 

 Kỳ thi trung-học phổ thông, tôi và anh đều có kết quả tốt. Anh tình nguyện vào quân-đội học khóa hạ-sĩ quan Đồng-đế. Mọi người đều khuyên anh nên thi vào trường sư-phạm để dạy học, hay học thêm một nghành nghề gì đó để được làm việc văn phòng..thời buổi chiến tranh, ai cũng muốn tìm chỗ bình yên mà anh lại tìm vào chỗ chết. Anh đang có quyền miễn dịch, khỏi vào quân đội vì anh là con trai duy nhất trong gia đình, có cha đang phục vụ trong quân-đội và mẹ khuyết tật. Anh chỉ trả lời một câu duy nhất: “Tôi thích làm lính hơn làm các công việc khác.”

 

Không may cho anh, một tháng sau khi anh nộp đơn tình nguyện đi lính, cha mẹ anh chết vì bị nước lụt cuốn trôi trong một ngày về quê thăm bà con. Việc tìm xác và chôn cất cha mẹ anh làm trễ ngày trình diện vào lính. Anh thường tâm sự với tôi: “Từ ngày cha mẹ anh chết, anh cô đơn và hụt hẫng trong cuộc sống, bà con họ hàng gần gũi không có ai. Anh muốn đi đâu thật xa để quên đi đau buồn. Nghe anh nói, tôi cảm thấy buồn vô hạn, vừa thương anh vừa sợ mất anh.Tôi chỉ biết im lặng.

 

Nhờ quen biết, ba tôi tìm cho anh một chân thư ký cho một hãng làm nước tương. Anh làm việc cho hãng nước tương được hai năm thì cưới vợ. Ba mẹ tôi đại diện làm chủ hôn cho anh. Anh cưới cô Mỹ. Mỹ là cháu của một bà bán gạo, các thứ đậu và cá khô trong chợ, sạp kế cận xe bán nước mía của mẹ anh trước đây.Tôi không biết anh quen biết cô Mỹ lúc nào. Truớc ngày cưới tôi cũng chưa một lần thấy anh đi chung với cô Mỹ,và cũng chưa một lần anh kể cho tôi nghe về sự quen biết giữa hai người. Đến khi anh nhờ ba mẹ tôi làm chủ hôn cho anh, anh mới kể sơ lai lịch của cô nầy.

 

Cô Mỹ có cha mẹ sinh sống bên Thái-Lan nhưng cô được cha mẹ gởi về Việt-nam để đi học.Cô học không khá mấy nên ở nhà giúp bà dì buôn bán trong chợ.Trong tương lai, cô chưa biết cha mẹ cô sẽ về Việt-nam sống hay cô phải trở qua Thái-Lan với cha mẹ. Nghe anh sắp cưới vợ, tôi buồn quá. Dường như có một chút ghen ghen trong lòng. Cảm thấy như anh không còn dành trọn vẹn cái tình cảm của anh trước đây cho tôi. Và từ đó,tôi tránh gặp anh thường xuyên, lòng tôi như mất mác cái gì đó. Có lẽ anh biết tôi buồn chuyện anh sắp cưới vợ, nên mỗi khi gặp nhau, anh hay vỗ vai tôi và nói: “Ti là em trai của anh, lúc nào em cũng

 

là em của anh, nhưng anh phải cưới vợ chứ, gần ba mươi tuổi đời rồi! Em hãy giữ lòng tin của em nơi anh. Sống thui thủi một mình buồn lắm em ơi! Nếu ông bà già anh còn sống, anh chưa cưới vợ đâu.

 

Ngày cưới của anh, tôi làm phụ rễ.Thấy anh sung sướng, tươi cười   có vẻ hạnh-phúc tôi rất vui. Nỗi buồn của tôi cũng tan đi từ ngày cưới hôm đó.

 

 ************

 

Đổ tú tài phần hai xong, tôi thi đậu vào Đại-học sư phạm Huế.Tôi nhập học được hai tháng thì mấy em gái tôi báo cho biết Tân treo bảng cho thuê nhà, và chuẩn bị theo vợ đi Thái-lan. Vì mới nhập học nên tôi không về Đà-nẵng để tiễn vọ chồng anh đi Thái-Lan. Trong một thư anh gởi cho tôi, anh viết: “Ti ơi,nhưcó lần anh nói với em sau cái chết của ba mẹ, anh muốn đi một nơi nào thật xa để quên đi nỗi buồn, nay vợ anh đề nghị cùng đi Thái-Lan để tìm cách làm ăn cùng gia-đình bên vợ và đồng thời để biết gia-đình bên vợ,anh đồng ý ngay,vì đây là dịp thực hiện ý định của anh mà Ti đã biết.

 

Sáu tháng sau, tôi đang về nhà nghỉ hè, chuẩn bị đi ngủ thì  nghe tiếng mẹ tôi gọi: “Ti ơi,Ti ơi, anh Tân về này, còn đang ở ngoài sân.

 

Tôi  nhãy vội ra khỏi giường, nhưng lòng vẫn nghi là mình nghe lộn. Cả gia-đình tôi đều vui mừng, những người nhà bên cạnh cũng chạy qua nhà tôi chào Tân. Tôi đứng yên nghe anh trả lời những

 

câu hỏi của mọi người: “Kỳ này về, chừng nào qua lại Thái-Lan?” Tôi nghe anh nói về luôn, vì anh không hợp với cuộc sống bên đó.Vợ anh sẽ về sau. Sự thật vợ anh sẽ không bao giờ trở lại Việt-Nam. Anh đã tâm sự với tôi sau nầy như thế.

 

Chưa lấy lại được nhà cũ đã cho thuê vì còn trong hạn giao-kèo, ba mẹ tôi dành cho anh ở một phòng trên căn gác lững được dùng chứa những vật dùng không cần thiết lắm. Ba tôi tim được cho anh chân thư ký cho một phòng khám của một bác-sĩ vốn là bạn học cũ của ông. Một buổi tối cuối tuần tôi rũ anh đi xem chiếu bóng, phim "Chúng tôi muốn sống". Trên đường trở về, sau khi xem phim, anh vỗ vai tôi: “Ti thấy tụi Cọng-sán nó ác không?Tôi chưa kịp trả lời anh nói tiếp:” Ti chưa biết đâu, gia đình ông nội anh gồm bốn người bị chúng giết thả trôi sông, mất xác, chúng buộc tội họ hoạt động cho Việt-nam Quốc dân Đảng. Bà chị của anh, lúc đó còn nhỏ ở với ông bà-nội cũng bị chúng bắt đi, mục đích điều tra tìm ba anh. May là ngày hôm trước vụ thảm sát nầy, ba mẹ anh đưa anh về bên ngoại chơi nên thoái nạn. Sau nầy dân địa phương kể lại,chị anh có khai là ba mẹ anh về bên quê ngoại, nhưng chúng không tin, chúng bắn chị chết rồi đem xác thả sông.” Kể đến đây, tôi nghe giọng anh nghẹn lại. Anh đang khóc, tôi nhìn anh mà lòng cũng đau đớn cùng anh. Anh nói: “Anh thù bọn cộng sản nầy lắm, ông bà nội và hai người chú của anh bất đồng quan điểm chính trị với chúng bị chúng giết đã đành nhưng chị của anh, còn bé dại có biết gì đâu mà chúng cũng không tha!”.

 

Hôm đó anh nói chuyện với tôi rất nhiều. Về đến nhà, đêm đã khuya, anh và tôi ngồi nơi bực tam cấp trước hiên nhà, anh quàng vai tôi, nói tiếp:

 

“Em có biết tại sao vợ anh, chị Mỹ không cùng về với anh không? Anh rất đau lòng phải xa vợ anh, và có lẽ vĩnh viễn anh và chị không còn có cơ hội gặp nhau nữa. Khi vợ chồng anh đến Thái-Lan một thời gian ngắn anh khám phá ra cha mẹ Mỹ là cán bộ Cộng sản hoạt động kinh tài cho miền Bắc Việt-nam. Sau hiệp-định đình chiến năm 1954, cha mẹ Mỹ được đưa qua hoạt động miền Đông-Bắc Thái làm chủ một cơ xưởng sửa xe du lịch và vận tải. Anh rất hụt-hẩng khi biết được việc nầy. Đến khi cha mẹ Mỹ đề nghị anh thay thế người con trai trưởng phụ làm quản-lý cơ xươngđể người nầy trở về Bắc học tập chính trị, anh từ chối. Anh hỏi em làm sao anh có thể chấp nhận được yêu cầu của cha mẹ vợ? Cả gia đinh bên nội anh và chị anh đều bị bọn chúng giết, còn ba của anh là lính Quân-đội Quốc-gia...nếu anh chấp nhận làm việc, anh nghĩ cũng chỉ tạm thời, một mai chúng điều tra lý lịch  liên hệ gia-đình của anh thì chắc chắn chúng sẽ đuổi anh ngay. Anh bàn với Mỹ, trở về Việt-nam. Mỹ không chịu và còn tiết lộ cho anh biết:sau khi ngưới anh về Bắc học chính trị sáu tháng, sẽ qua lại Thái chuẩn bị mở thêm một cơ xưởng mới tại Lào. Mỹ sẽ qua Lào làm quản lý cơ sở mới. Cha mẹ Mỹ sẽ đưa Mỹ đi Bangkok gặp nhân viên sứ quán Bắc Việt tuyên thệ gia nhập đảng Cộng sán đồng thời nhận chỉ đạo về công-tác bên Lào. Không thuyết phục được Mỹ trở về nước, anh đã lặng lẽ mua vé máy bay trở về, chỉ để lại cho Mỹ vài dòng:

 

‘Anh phải trở lại Miền-Nam vì anh không thể nào hợp tác với Việt-cộng. Em đã không muốn cùng anh trở lại Miền-nam sống cho đến hết cuộc đời thì chúng ta chia tay. Mỗi chúng  ta có con đường đã chọn, anh không thể đánh mất ý-tưởng Quốc-gia của anh. Anh đau lòng, nhưng không có lựa chọn khác, mặc dầu anh vẫn yêu em. Vĩnh-biệt em’”.

 

Kể đến đây anh yên lặng khá lâu, tôi như nghe được tiếng đập buồn bã của tim anh. Tôi quàng tay qua lưng anh, chia sẽ nổi buồn vô tận của anh.

 

                                                                                              

 

************

 

Vài tháng sau, anh báo tin đang học khóa hạ-sĩ quan. Rối anh báo tiếp, anh đã ra trường phục-vụ trong binh-chủng nhảy dù. Từ đó tôi và anh không còn gặp nhau nữa. Anh theo đơn vị đi khắp bốn vùng chiến thuật. Còn tôi ra trường đi dạy ở Lâm-đồng.

 

Ngày tôi lập gia-đình anh không về được, anh báo cho tôi biết, anh được đơn-vị gởi đi học khóa sĩ quan trường bộ-binh Thủ-Đức nhờ những thành tích chiến đấu ngoài chiến trường.

 

Khi tôi có đứa con gái đầu tiên, anh gởi lời chúc mừng đồng thời báo tin anh vừa được thăng cấp thiếu-úy tại mặt trận.Tháng 04 năm 1975, khi cộng sản Bắc-việt chiếm đoạt toàn lãnh thổ miền Nam anh bị Tù cải-tạo, tôi và gia đình vượt biển tìm tự-do.

 

*************

 

 Lần thứ hai tôi lên Paris để chuyển thêm tiền cho Tân, anh đã có thư cho tôi biết bịnh tình anh đã ổn định. Anh không nhờ gởi thêm tiền nhưng tôi biết đời sống của một người tù cải-tạo được thả về trong chế-độ hiện tại rất ngặt nghèo, không có phương kế sống. Anh không có gia-đình thân thích giúp đỡ trong những ngày ra tù đầu tiên. Nghe anh nói anh sống tạm trong gia-đình những người bạn trong quân ngũ ngày trước, tuy họ cũng thiếu thốn như anh, nhưng họ còn có cái nhà để trú mưa nắng. Tôi gởi thêm tiển cho anh. Tiền nầy tôi tặng anh với ước muốn giủp anh có vốn buôn bán thuốc tây ngoài chọ trời. Những lần tôi gởi thuốc tây cho anh, anh kể lại anh đem bán ngoải chợ trời những thuốc không cần dùng. Anh có ý tiếc rẳng anh không có vốn để mua thêm thuốc rồi bán lại.

 

 

 

Mỹ vẫn làm việc tại cơ sở chuyển tiền và đang ngồi thâu nhận tiền của khách gởi. Còn năm người khách nữa mới đến phiên tôi.Tôi lại quan-sát kỹ Mỹ lần nữa, lo rằng chỉ là người giống người, nhưng khọng, cái vành tai bị sứt thì ít khi có sự trùng hợp được. Khi đến phiên tôi làm thủ tục gởi tiền, vì bị phân tâm, tôi lấy mũ để qua một bên, trên cái kệ trước bàn chuyển tiền. Nhìn vào căn-cước của tôi, Mỹ lại nhìn mặt tôi. tôi vội lấy mũ đội lại và kéo sụp vành mũ xuống. Một lần nữa Mỹ lại nhìn tôi, cặp mắt Mỹ sáng lên, vẻ ngạc nhiên, hỏi tôi; “Chú Ti phải không ?Tôi chưa trả lời câu hỏi. Mỹ lại nhìn căn-cước của tôi đọc lớn :Lê-ngọc-Đoàn..Lê-ngọc-Đoàn...

 

 Mỹ lại hỏi: “Chú Ti phải không ? Đoàn là tên trên giấy tờ,Ti là tên gọi trong gia-đình”

 

Biết không thể dấu được với sự nhận diện nầy, tôi gật đầu xác nhận.

 

Mỹ hỏi tiếp giọng vừa xúc đông,vừa vui mừng:

 

“ Ti, Ti nhớ chị không ? Chị là Mỹ, vợ anh Tân của Ti đây ! Ti có tin tức gì của anh Tân không? Tôi trả lời gượng gạo: “Em đâu biết chị làm việc ở đây, em không nhận ra chị. Em không có  tin tức anhTân từ sau biến cố năm 1975. Một thoáng buồn hiện trên mặt Mỹ. Mỹ thở dài...Mỹ hỏi tôi giọng như năn nỉ : “ Hiện nay Ti đang ở đâu? Gần đây không? Có thể chị gặp Ti trưa nay cùng ăn trưa và nói chuyện được không? Gặp Ti, chị mừng lắm, lâu lắm chị em mới gặp lại nhau”.

 

Biết không thể từ chối được, tôi đồng ý, nhưng cũng nói cho Mỹ biết: “ Em ở tận Dijon, em phải trở về chuyến tàu lúc 15 giờ.

 

Còn hơn một giờ nữa mới đến lúc hẹn ăn trưa.Tôi lang thang trên hè phố, suy nghĩ không biết có nên kể hết sự thật về anh Tân cho Mỹ biết không ? Không biết anh Tân có đồng ý khi chưa có ý-kiến

 

của anh ?Anh Tân chống cộng sản còn chị Mỹ làm việc cho cộng sản, quan điểm về tư tưởng đối chọi nhau, vấn đề nầy chỉ có người trong cuộc mới tự giải quyết.Tôi cần biết chuyện của chị Mỹ trong thời gian sau khi không còn sống với anh Tân.

 

Trưa hôm đó, tôi không tiết lộ một tin tức nào của anh Tân cho chị Mỹ biết. Chị kể cho tôi nghe chuyện của chị từ sau ngày hai người chia tay nhau:

 

...Chị được cha mẹ đưa về Hà-nội học chính-trị rồi qua Lào phụ giúp người anh thứ ba quản lý hãng sửa chứa xe. Trên nguyên tắc chị làm quản lý, nhưng khi anh Tân về xứ, chị mới biết chị có triệu chứng mang thai. Cha mẹ chị không muốn chị giữ bào thai vì sợ ảnh hưởng về chính trị cho công việc của chị sau nầy. Chị không chịu, vì vậy sau khi học khóa chính-tri xong chị bị kiểm điểm, bị phê-bình đang lưu giữ tàng tích của Ngụy quyền Sài-gòn, nên họ tạm thời cho chị làm phụ tá hãng sửa chứa xe thay vì làm quản-lý theo dự tính của phân bộ đảng. Chị sinh được một bé trai và làm việc tại Lào được ba năm, hãng xe bị thua lỗ vì dân Lào không hợp tác; người Lào lúc đó thân chính quyền VNCH. Biết hãng sửa chứa xe là cơ sở kinh tài của Cộng sản Bắc-Việt nên họ tẩy chay, hãng phảiđóng cửa, chị đem con trở lại Thái-Lan.Chị được chi đáng-bộ cọng-sản tại Thái điều đến làm việc cho một nhà hàng ở Chiengmai, nhà hàng nầy cũng là cơ-sở kinh-tài cho lãnh-sự quán Bắc-Việt. Làm việc ở nhà  hàng được vài năm, đến năm 1975,Việt-nam thống nhất. Lãnh-sự quán Cộng sản bên Pháp thay đổi nhân-sự, thiếu nhân-viên làm việc, chị lại được điều qua Paris, được chỉ định phụ giúp điều hành cơ sở chuyển tiền về Việt-nam như hiện nay chị đang làm. Con trai của chị đang là y-tá trưởng một bệnh viện vùng ngoại-ô Paris. Con trai chị lấy vợ vài tháng trước đây, vợ là một người Pháp.”

 

 Tôi hỏi chị: “Chị có lập gia đình sau khi chị và anh Tân chia tay?”

 

 Chị thở dài, lắc đầu:” Tưởng  là bất đồng tu-tưởng lúc đầu, tạm thời chia tay, rồi tìm cách đoàn tụ, nhưng anh Tân quả quyết quá nên bao nhiêu thư chị viết cho anh ấy đều không được anh ấy trả lời. Vì tin-tức của anh Tân nên chị đành phải tuân theo mọi sự sắp xếp của gia-đình chị. Chị là đàn bà con gái đang mang thai,không có chồng bên cạnh trong khi ở xứ lạ quê người, theo em,em có cách nào lựa chọnkhác không?Trong cuộc sống đưa đẩy,chị cũng gặp nhiều người thương chị, muốn tiến đến hôn nhân nhưng chị từ chối. Lòng chị chỉ có hình ảnh của anh Tân, tình yêu của chị chỉ dành cho anh Tân. Khôngcó tin tức cua anh ấy, nhưng chị cầu mong anh ấy vẫn còn hiện-hữu một nơi nào đó và an bình bên vợ con của anh ấy. Anh ấy là người chân thật, tình cảm, biết yêu thương mọi người. Đức tính ấy chắc sẽ được xã hội và cuộc đời đền đáp.Tôi nghe giọng chị lắng xuống như nghẹn lại, hai mắt chị đầy nước.

 

Khi chia tay, tôi hứa sẽ có dịp thăm chị tại nơi làm việc khi có dịp trở lại Paris

 

**********

 

Những dịp sau nầy tôi lên Paris chơi cuối tuần hay chuyển tiền giúp anh Tân, tôi đều tiếp xúc chuyện trò thân mật với chị Mỹ. Chị một lòng vẫn yêu anh Tân. Một lần chị mời đến nhà chị, phòng khách chị vẫn còn trang -hoàng vài tấm ảnh ngày đám cưới của chị và anh Tân.Tôi có gặp Vũ, con của hai người. Vũ cao lớn như anh Tân, có nụ cười rất giống anh. Vũ nói với tôi:”’Mẹ luôn luôn tìm hỏi thăm tin tức của ba, nhưng không có chút ánh sáng nào cả. Mẹ có về Việt-nam vài lần với mục đích tìm ba, nhưng cũng vô vọng. Nghe Vũ nói, lòng tôi trào dâng nghẹn ngào trong im lặng.Tôi lại nghĩ đến anh Tân, không biết tôi có nên kể lại chuyện nầy cho anh biết không?Tôi cảm thấy tôi quá tàn nhẫn khi giừ mãi sự im-lặng đối với cả hai bên.Tôi suy nghĩ rất nhiều,và tôi đă quyết định.

 

Mãi cho đến khi anh Tân qua Mỹ theo chương trình HO, tôi có qua Mỹ thăm anh. Anh đã già đi nhiều, có lẽ những năm tháng ở tù cải-tạo đã làm thay đổi thân xác anh, nhưng sự chân thật của tâm hồn anh vẫn còn nguyên sơ. Anh ôm tôi, tôi yên lặng đón nhận sự thân ái của anh từ xưa kia trở về. Hai anh em cùng nghẹn ngào, hai anh em cùng xúc động.Tôi lưu lại Mỹ với anh một tuần rồi trở về Pháp.

 

Anh và tôi không thể bỏ công việc đang làm.

 

Một ngày, trước khi lên máy bay, đang ăn cơm tối với anh, tôi chợt hỏi: “Anh Tân, từ ngày anh và chị Mỹ xa nhau đến nay anh có tin tức gì của chị ấy không?” Anh lắc đầu thở dài:

 

 - Thôi đi Ti, chuyện đã qua rồi nhắc lại làm chi nữa. Chắc bây giờ chị ấy cũng chồng con rồi dầu có gặp lại nhau cũng chẳng ích gì.

 

Anh lại thở dài.Tôi hỏi tiếp:”Lúc anh xa chị ấy, chị ấy đã có thai với anh chưa ? Anh lại lắc đầu và thở dài: “Anh không biết và cũng không nghe chị ấy nói.”

 

Tôi lại hỏi: “Chẳng hạn như lúc đó anh biết chị ấy có thai với anh, thì anh giải quyết làm sao, đi về hay ở lại?”

 

Anh đứng lên đưa tay đập vai tôi:”Câu hỏi của Ti cũng khó trả lời, nhưng anh nghĩ lúc đó cũng có cách giải  quyết. Biết anh không trả lời thẳng câu hỏi, sợ làm mất vui trước ngày chia tay nên tôi bắt qua chuyện khác; “Anh không lấy vợ nữa sao?Tìm một người nào đó chung sống với nhau,để nâng đỡ nhau những lúc khó khăn trong cuộc sống. Anh cười lớn tiếng:

 

- Anh già rồi, đâu có bà nào để mắt tới đâu mà có vợ, gần sáu mươi rồi...thôi đành sống cô độc cho yên thân”.

 

Anh lại thở dài,hớp một phần  ly rượu, ngồi yên đưa mắt nhìn trần nhà. Nhìn nét mặt đăm chiêu của anh, nghe những hơi thở dài của anh từ khi bắt đầu câu chuyện, tôi nghe được lòng anh, thấy được chị Mỹ vẫn còn ẩn náu một chỗ khuất nào đó trong anh.Tối hôm đó hai anh em tâm tình với nhau đến khuya, tôi ngủ lúc nào không hay. Buổi sáng hôm sau, tỉnh dậy, chai rượu còn lại hai phần ba của đêm hôm trước trống rỗng nằm lăn trên bàn.

 

                                                                                              

 *******

 

Khi rời nước Mỹ, tôi không quên mời anh Tân qua Pháp chơi với gia đình tôi nhân dịp lễ phục-sinh năm kế tiếp, anh nhận lời.

 

Tôi cũng mời chị Mỹ và vợ chồng cháu Vũ xuống nhà tôi chơi vào cuối tuần của lễ phục sinh năm đó. Anh Tân đã đến với gia-đình tôi được vài hôm thì đến ngày chị Mỹ và vợ chồng cháu Vũ đến.

 

Chiều hôm đó, tôi nói với anh Tân: Em bận đưa mấy con và vợ đi lễ nhà thờ.Em có mời gia đình một người bạn từ Paris xuống chơi, nếu anh ở nhà, người ta đến em chưa về kịp, nhờ anh đón tiếp họ dùm em.”

 

Tôi lại điện thoại cho chị Mỹ: “Nếu chị và vợ chồng cháu Vũ đến mà

 

em không về kịp vì cả gia-đình em bận đi lễ nhà thờ, chị cứ bấm chuông, có người nhà em đón.”

 

Buổi chiều giữa tháng tư, đã là mùa xuân, nhưng vẫn còn tuyết rơi muộn, nên trời vẫn vắng bóng mặt trời.

 

Vợ con tôi còn đang ở trong nhà thờ, tôi lái xe chạy ngang trước nhà, nhìn thấy chiếc xe của chị Mỹ đã đậu ở đó từ lúc nào rồi, ánh điện trong phòng khách cũng đã được thắp sáng.

 

Tôi lái xe trở lại nhà thờ, tự dưng thở một hơi mạnh và dài, tuởng tuợng ra cảnh vợ chồng, cha con ngỡ ngàng nhìn nhau, gặp nhau, rồi tôi tự hỏi chuyện làm nầy của mình có đúng không?

 

Tôi chợt nhận ra mình đang mỉm cười.

 

                         Nguyễn-đại-Thuật

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.