Hôm nay,  

Đường Về Nước Mỹ

16/04/201810:23:00(Xem: 5461)

Chúng tôi đến Merang vào lúc 16 H chiều ngày 19-3-1979. Thú thật tôi cũng không ngờ được là giây phút cuối cùng rời xa Pulau Bidong, nơi đã cưu mang tôi 140 ngày, nơi tôi biết thế nào là sự tủi cực khổ đau của đời lưu vong mất nước, kiếp ăn nhờ ở đậu..tuy nhiên tôi vẫn không nén đưọc nỗi xúc động và lưu luyến thật sự khi chia ly.

 

12 giờ trưa bước chân vào đồn cảnh sát Mã Lai để khám xét hành lý và lập thủ tục xuất trại. Sau đó qua công “La Sanh Môn” để bước chân xuống chiếc PRC4 rời đảo . Ôi còn gì cảm động cho bằng giây phút này ? Nhìn đồng bào đang đứng trên bờ vẫy gọi, cầu chúc, trao gởi, mới thấy thắm thía biết bao về tình dân tộc, nhìn những cặp mắt thiết tha dường như muốn rơi lệ của những người còn ở lại, mới đau lòng trong cảnh chia ly . Tôi tiếc cho mình không phải là một gã tài hoa để sống cảnh sinh tình, viết ngay những vần thơ diễm tuyệ gởi đến cho đồng bào, cho ta, để ghi lại tất cả những kỷ niệm của ngày xa đảo, để được đọc lại những buồn vui, đau khổ, trên bước đường viễn xứ .

-“Thôi mình biết nói gì đây ?

Khi buồn thương đã chất đầy trong tim

Mai này như một cánh chim

Trời thênh thang rộng biết tìm nơi đâu ?

Lũng, đèo buốt giá mưa ngâu

Biên cương nay đến, giang đầu mai qua

Rừng Sim non sẽ chín già

Tuổi hoa theo bóng ác tà lên non

Như đời trấn thủ lưu đồn

Bỏ công ngày tháng sách đèn đam mê

 

Nhưng thôi, dù có vương vấn, bịn rịn hay buồn đau thì tôi cũng đã xa Pulau rồi . Tôi đang đến trạm đầu tiên trên đường tiến về cổng thiên đường của nước Mỹ : Merang .

 

Đây là một trong những địa danh trên đất Mã Lai Á, nhưng cái tên này hầu như đã gắng liền trong tâm khảm của đồng bào tị nạn ở miền West Malaysia. Nó là một địa điểm tiếp liệu từ Trengganu xuôi về Kuala Lumpur . Nói rõ ra, Merang là nơi mà đồng bào tị nạn ở các trại Pulau Bidong, Besar và các trại giáp biên giới Thái Mã, đều phải đến đây nghỉ chân 1 vài ngày rồi lên đường về thủ đô lập thủ tục và chiếu khán để đi định cư ở đệ tam quốc gia .

 

Merang làm cho tôi cảm tình ngay, không phải nó với đầy đủ tiện nghi, không phải nó cho tôi tự do tối thiểu, mà vì Merang quá quen thuộc và gần gũi với tâm hồn tôi . Thật vậy, Merang giống Cam Ranh, cũng nằm ngay trên bờ biển Thái Bình Dương, chập chùng quanh quẩn là những núi đồi cao vút . Merang cũng nằm trên trục lộ chính . Merang cũng có những rặng dừa xanh thẳng tắp, điệp điệp mộng mơ . Nhưng chính Merang là nơi mà tôi lại sắp được gặp gỡ những người thân từ các nơi trẩy về .

 

Đêm nay tôi được ngủ lại Merang để mai lên đường dấn thân vào cõi gió bụi phù hoa làm lại cuộc đời mới, cuộc đời mà tôi biết chắc chắn sẽ là những nấm mộ đen che kín tâm hồn tôi, cuộc đời của một kẻ thất chí tan nhà . Nghỉ, nhớ và viết để tôi càng thêm ngậm ngùi .

 

Nằm yên lắng nghe những chiếc lá bên ngoài đang xì xào, nghe sóng vỗ bập bềnh, tâm hồn cũng lao xao, ray rứt, giữa đêm đen khi nghe tiếng con chim lạc lõng cất tiếng kêu thảm thiết, có khác chi cảnh ngộ của tôi giữa cuộc đời phù phiếm sắp dấn thân vào . Tôi cũng chỉ là một con én đang nhỏ hồn trong đợi những trận gió xuân ấm áp để xuôi về cõi trời Nam .

 

Thì ra cũng chỉ là những câu hỏi được lập đi lập lại, những chặn buồn trong điệp khúc của bản nhạc sầu vong quốc, khóe mắt tương tư của người mang mối tình lỡ với sự dày vò và hối hận của một tâm hồn đang gục chết, đang đi vào những lối quanh bế tắc, vây kín tơ nhện giăng lối về . Đi là sự nhớ thương triền miên cùng tận đã dành cho kiếp lưu đầy . Ôi rồi tôi sẽ phải làm gì cho tôi, cho gia đình, quê hương trong những ngày sắp tới .

 

Merang quả là nơi lý tưởng,nó không giống Bidong một điểm nào . Chúng tôi được tự do ra vào cửa từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, ăn uống mua sắm tự do nếu có tiền và các phương tiện tối thiểu dành cho một đời sống như nước, cơm, chỗ ngủ, chỗ tắm và giải trí đều có sẵn hơi thừa thải

 

Bởi thế tôi không thể quên nổi Merang dù đã xa lìa nó . Tôi sẽ nhớ lại những địa danh xa lạ cùng những người bạn Mã Lai trong cơn vui buồn . Tôi thầm cầu nguyện được trở lại quê hương Việt Nam để cùng non nước vui hưởng lại hạnh phúc như thuở thanh bình .

 

KUALA LUMPUR NHỮNG NGÀY DÀI CHỜ ĐỢI

 

8 giờ 30 sáng ngày 21-3-1979, chúng tôi đến trại tiếp liên Cheras ở ngoại ô thủ đô Kuala Lumpur của Mã Lai Á, sau một đêm dài trằn trọc, lao chao và mất ngủ trên xe bus.

 

Tôi không biết phải dùng danh từ gì để gọi cho đúng cảnh tượng mà từ đằng xa tôi đã thấy từ trong vòng rào kẽm gai với lố nhố những đầu, mặt, tay đang vẫy gọi cùng với những thanh âm le lói . Tất cả, tất cả dành cho người mới đến .

 

Tôi đã bước vào cổng trại Cheras, đi vào ngôi thánh đường trống rỗng đức tin, chỉ có người và người mà thôi . Vói nhìn chung quanh, trại được bao vây bằng những hàng rào kẽm gai cao vút, có lính gác nghiêm mật . Bên trong đen kịt những người chen chúc sống trên một diện tích vài trăm m2, tấp nập quanh rào, phía trước, bên hông, đằng sau là những đống rác to xù, chen chân với phân người, muỗi bọ và những người tị nạn từ khắp các nẻo đường Mã Lai Á đổ xô về đây để đợi chờ lên đường đi định cư.

 

Đời thật nản chi lạ, ở đâu trên đất Mã Lai này, cũng bằng thứ ấy thật giống nhau, được bày sẵn để dành cho người tị nạn . Tôi lại một lần nữa gia nhập vào cộng đồng của những tâm hồn lạc lõng để tham dự một cuộc hành xác, để đợi chờ một lần cuối cùng, mai xách gói ra đi, bỏ Mã Lai Á, bỏ ngôi giáo đường không, bỏ bạn bè và tất cả.

 

Hỡi ơi, suốt thời gian tạm trú ở đây với sự bảo trợ của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế dành cho người tị nạn VN t ại Mã Lai, hầu như không còn gì nữa để tôi phải nhắc đến .  .

Tôi đã gặp lại những khuôn mặt quen thuộc ở nơi này. Tất cả đã méo mó, mệt mỏi, nên khi họ gặp tôi, họ đã ra dấu thánh giá như nhờ bề trên ban phước lành cho tôi sớm được ra đi, vì còn ở lại nơi này là từng phút qua, cổ lại mang vào một vòng khoen khổ ải . Những cảm nghĩ cứ dến với tôi liên tiếp và dồn dập, làm cho tôi không biết phải xếp đặt thế nào để viết . Ôi cớ sao sự vất vả và tủi hổ cứ liên tiếp đến với người tị nạn chúng tôi ? Tại sao người ta không cho chúng tôi một ngày ổn định, để chuẩn bị tư thế bước vào một cuộc sống mới .

 

Thôi tôi đã hiểu rồi, số phận của người tị nạn là thế .Tôi chờ đợi một chuyến ra đi cuối cùng, tôi sống càng lúc càng thu hẹp lại như những vòng kẽm quanh nhà thờ cũng cứ mãi thu hẹp lại, mắt trơ tráo đứng nhìn những người thân yêu lần lượt ra cổng, giã từ mình . Họ cũng ra đi nhưng chẳng biết đi về đâu . Cũng như tôi sẽ chẳng biết là ở lại bao lâu nữa !

Rồi mai bước chân ra khỏi cổng trại, cách xa vĩnh viễn Cheras để rồi càng xa thêm Việt Nam, tôi tự hỏi mình lại đến bao giờ mới được quay về cố huong để cùng non nước, gia đình, bạn bè nối lại vòng tay lớn .

 

Ghi vào đây một vài dòng trong nỗi buồn ở Cheras .

 

Honolulu

4-1979

MG

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.