Hôm nay,  

Quốc Hận

17/04/201800:00:00(Xem: 5840)
Phạm Gia Đại

 
Hằng năm cứ vào Tháng Tư dương lịch, các cộng đồng người Việt, dù ở nơi nào trên thế giới, đều long trọng cử hành Lễ Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận. Ngày 30 Tháng Tư Năm 1975, ngày mất miền Nam vào tay cộng sản, ngày mà đồng minh Hoa Kỳ đã phản bội đồng minh Việt Nam Cộng Hòa để bắt tay mậu dịch với Trung Cộng, để cho miền Nam phải đơn độc chiến đấu chống lại cả khối cộng sản hung tàn, mà đại diện là cộng sản Bắc Việt xâm lược – ngày đó đã được gọi với tên thống nhất là Ngày Quốc Hận. Sau hai thập niên chiến đấu anh dũng bảo vệ quê hương và nền tự do độc lập của miền Nam, chế độ VNCH đã bị bức tử. Chính phủ Mỹ thời bấy giờ qua Tổng Thống Richard Nixon và cố vấn Henry Kissinger đã thực thi chính sách bỏ rơi Đông Dương. Viện trợ cho chế độ miền Nam từ một tỷ USD xuống còn 700 triệu, còn 300 triệu, và đến đầu năm 1975 thì viện trợ Mỹ đã trở về con số không một cách tàn nhẫn. Chính quyền Hoa Kỳ bấy giờ đã thay đổi chính sách đối ngoại đột ngột đem đến cái chết cho cả một dân tộc. Gần cuối tháng Tư, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bị áp lực phải từ chức để cho các vị không được dân bầu lên thay thế, ngõ hầu Mỹ có thể thực hiện được lời cam kết của họ với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai năm 1972 qua các mật đàm tại Bắc Kinh và Hiệp Ước Thượng Hải. Ông Dương Văn Minh lên thế cụ Trần Văn Hương trong chức vị tổng thống, để ra lệnh đầu hàng vào sáng ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Miền Nam tan tác và rơi vào máu lửa dưới súng đạn của cộng quân và sự trả thù tàn bạo của họ.

Để chuẩn bị cho việc người Mỹ lui quân, không can thiệp vào chiến tranh Đông Dương nữa, hội nghị Ba Lê đã được thành lập với bốn bên: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Bắc Việt và Việt Cộng (dưới tên “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”). Người Mỹ đã trực tiếp đàm phán với Bắc Việt và để cho VNCH ngồi ngang hàng với VC. Tổng Thống Thiệu đã cực lực phản đối, nhưng không thành công vì người Mỹ vẫn đi theo kế họach họ đã vạch sẵn. Các tướng lãnh Hoa Kỳ tuyên bố họ tham dự vào một cuộc chiến mà không được chiến thắng, hay như tướng bốn sao của Mỹ Westmoreland nói ông chiến đấu với một tay bị trói ra đằng sau. Các cuộc biểu tình phản chiến vào những năm cuối thập niên ’60 và đầu ’70 tại Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, mà nhiều quan sát viên cho rằng có bàn tay của “Xịa” nhúng vào, đã như hỗ trợ cho chính sách rút quân của Mỹ ra khỏi Miền Nam nhanh chóng hơn và bất kể hậu quả. Nhiều phóng viên quốc tế, nhất là của truyền thông Hoa Kỳ, được phái qua miền Nam tường thuật về chiến tranh VN, trong suốt thời gian từ Tết Mậu Thân 1968 cho đến khi Hòa Đàm Ba Lê kết thúc 27-1-1973, cho biết rằng họ đến miền Nam để lấy các tin tức có lợi cho cuộc triệt thoái này, không phải lấy tin về các chiến thắng của Quân Lực VNCH; và các tin tiêu cực, có lợi cho cộng sản, gây thiệt hại cho chính nghĩa của VNCH tràn ngập trên các báo chí truyền thanh truyền hình của Mỹ. Phóng viên người Đức Uwe Siemon-Netto của nhà in Đông Á lớn nhất tại Đức tiết lộ rằng bạn ông Peter Braestrup của tờ Washington Post đã hỏi toán quay phim truyền hình Mỹ sao không quay các cảnh VC tàn sát dân chúng, các hố chôn tập thể? Thì thấy họ trả lời thản nhiên rằng: “Chúng tôi không đến đây để làm tuyên truyền chống cộng sản.” Ông Uwe Siemon-Netto cho biết thêm VNCH đã bị bất lợi từ mọi phía, Walter Cronkite, xướng ngôn viên cột trụ của CBS Evening News, nhân vật mà thời gian đó, được xem như  được tín nhiệm nhất tại Hoa Kỳ, đã nói trước 22 triệu khán giả rằng cuộc chiến không thể thắng được. Cả một kế hoạch âm mưu đã được phác họa ra để giúp cho người Mỹ có cớ triệt thoái, đồng thời để triệt hạ uy tín chính nghĩa của chế độ Cộng Hòa tại miền Nam, và nâng các chiến thắng giả tạo của Bắc Việt và VC. Quả là điều đáng hổ thẹn cho các cá nhân và cơ quan truyền thông của Mỹ thời đó đã làm việc theo đơn đặt hàng và đi ngược với công tâm nhân loại.


Cuối tuần qua người viết bài này có dịp cùng với một người bạn đến Thư Viện Richard Nixon, thành phố Yorba Linda, miền nam California, Hoa Kỳ, để xem triển lãm về Viet Stories của hai người Mỹ gốc Việt tổ chức là cô Trâm Lê và Dr. Linda Võ của đại học UC Irvine, và cũng nhân dịp tham khảo lại các hình ảnh tài liệu về chuyến công du qua Bắc Kinh năm 1972 của Tổng Thống Nixon và viên cố vấn Kisinger. Hai căn phòng lớn của thư viện đã được dành cho các hình ảnh của chuyến công du, chưa kể hàng chục máy tivi đang chiếu lại các thước phim tài liệu về TT Nixon và chuyến công du của ông. Ngay đầu căn phòng thứ nhất là hai tấm ảnh phóng đại, chiếm lĩnh cả hai bức tường, chụp các tù binh Mỹ sau chấn song sắt, và các POW’s đang đứng trong sân trại giam ở Hỏa Lò Hilton Hà Nội. Đây đó là các hình ảnh về yến tiệc, như triều đình vua chúa ngày xưa, để chiêu đãi TT Nixon và cố vấn Kissinger.  Trong một góc phòng là hình tượng của TT Nixon đang bắt tay tươi cười với hình tượng của Chu Ân Lai bên cạnh ảnh vẽ chiếc Air Force One. Vận mệnh miền Nam đã bị định đoạt trong yến tiệc đó, miền Nam VN đã mất ngay sau cái bắt tay đổi thù thành bạn ấy của chính quyền Hoa Kỳ thời đó mà đại diện là TT Nixon và cố vấn Kissinger. Trên một bức tường khác treo ảnh chụp lại tờ báo Register ra ngày Thứ Tư 30-4-1975 chạy tít lớn: “Saigon surrenders to Viet Cong” và ảnh của Big Minh: “ President orders ceasefire”. Thực tế ngày đó, ông Dương Văn Minh, dùng quyền của một vị tổng thống (mới được đưa lên) là tổng tư lệnh quân đội, để buộc các đơn vị VNCH phải buông súng đầu hàng (chứ không phải ra lệnh ngưng bắn ceasefire), và Sàigòn đã mất.

Mỗi năm, cộng đồng người Việt hải ngoại trên toàn thế giới lại tưởng niệm ngày Quốc Hận trong những đau xót hằn vết không nguôi, nhưng nằm sâu trong tưởng niệm ấy là niềm hãnh diện của hàng triệu quân dân cán chính VNCH đã từng đứng dưới là cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để bảo vệ Tự Do cho Miền Nam trong cuộc chiến Quốc-Cộng 1954-1975. Âu là cơ trời vận nước suy vong. Người lính VNCH, kể cả các đơn vị bán quân sự, đã anh dũng chiến đấu gian khổ bằng xương máu của mình, bao nhiêu vợ con của họ đã từng cùng nằm trong chiến hào với chồng để chống lại từng đợt tấn công của cộng quân vào những xã ấp bé nhỏ thanh bình của Miền Nam. Họ đã hy sinh, nhưng gương dũng cảm và yêu chuộng tự do của họ vẫn sống mãi với lịch sử ngàn năm hào hùng của con cháu Lạc Hồng. Những người lính ngày xưa, sống sót sau cuộc chiến, sống sót qua bao năm tháng ngục tù trong các trại tập trung giết người của cộng sản, bây giờ đã già cỗi, nhưng họ vẫn còn đó, trong tim vẫn giữ hình bóng thân yêu của lá Cờ Vàng, và những hình ảnh yêu quý của Sàigòn ngày tháng cũ. Đại Tướng Douglas MacArthur, khi trở về từ chiến trường Triều Tiên, từng nói trước Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng Tư năm 1951 rằng “giống như người lính gìa trong bài thơ ấy, bây giờ tôi giã từ binh nghiệp, và sẽ phai mờ dần đi, một người lính đã hết sức làm phận sự của mình dưới ánh sáng của Chúa chiếu rọi (... and like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, an old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to), và ông kết luận: người lính già không bao giờ chết, họ chỉ phai mờ dần (old soldiers never die, they just fade away). (Tin Tổng Hợp).

PGĐ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.