Hôm nay,  

Kẻ Thua Cuộc

28/05/201821:23:00(Xem: 6660)

KẺ THUA CUỘC

 

 Nguyễn Văn Sâm

 

 Đứa con gái út tôi dọn cơm. Bữa nào cũng vậy, cá mòi phát trong trại tỵ nạn, khi thì chiên với vài tép tỏi, khi thì để vậy, chỉ cần trong lon trút ra. Cá mòi làm chuẩn liên tục mấy tháng khiến tôi nhiều lúc ợ bay mùi dầu cá. Mỗi khi cơm dọn lên, tôi cảm thấy bực mình như muốn phản đối một điều gì đó.

 

Vợ tôi lau chén đũa bằng miếng giẻ rách không được sạch lắm.

 

Không biết ông ứng bà hành gì tôi mở miệng phê bình nếu em đừng lau thì tốt hơn, miếng giẻ coi bộ dơ.

 

Khói lửa bốc lên từ đó. Nàng cằn nhằn đủ thứ chuyện, kết tội tôi muôn ngàn điều. Tất cả cô đọng lại bởi vì chúng tôi nghèo, tới trại với hai bàn tay trắng và niềm ô nhục hằn sâu trong giấc ngủ do sự hèn nhát của tôi trước bất hạnh của hai người thân nhất đời. Tiền bạc không rửa được nỗi ô nhục nhưng làm cho người ta dễ quên bất hạnh đi. Chúng tôi không có và hình như vợ tôi đang đi tìm. Tôi nghe lảng vảng trong gió ác thần sẽ đên, đè bẹp hạnh phúc của mình. Tôi thấy trong ánh mắt vợ tôi số mệnh đen đủi quấn quít bước chân tôi.

 

Tôi mặc nàng lải nhải, nhưng lúc nãy một câu nói làm tôi như bật dậy sau giấc ngủ say:

 

“Ai biểu hồi đó làm Tỉnh Trưởng mà ngu, không ăn hối lộ. Ngu mà tưởng mình trong sạch, cao thượng.”

 

Tôi từng chịu đựng mấy năm trời những câu chửi mắng xối xả trên đầu một cách vô cớ. Người ta phùng mang trợn mắt để tỏ ra mình trên trước, oai quyền. Tôi co mình lại để tự xóa bằng cách cố quên rằng mình từng cầm quân, từng coi sóc cả tỉnh. Tôi không còn là ông Đại Tá nữa, cái đó đã hẵn, rõ như ban ngày. Nhưng tôi cũng không còn là người tên Trung, cái đó không rõ ràng nhưng là như vậy đó. Lạ à? Này nhé, tôi không còn tức giận khi bị hạ nhục, không còn cãi cho ra lẽ trước những chuyện trái tai, không còn cười khẩy khi nghe một câu nói chửi cha kiến thức và nhất là không biểu lộ sắc mặt chống đối hay bất bình khi cái đoàn thể mà trước đây tôi là một thành phần từng trân trọng, từng lăn xả hết sức mình để làm cho nó đẹp, bị bêu xấu, hạ nhục, gán ghép cho cả ngàn thuộc tính xấu xa ghê tởm. Khi người ta không thuộc về thì người ta coi thường cái tập thể đó. Lúc nhỏ tôi ưa giởn hát vô ý thức, la như chệt chìm tàu, ở dơ như mên mọi, ác như tụi mặt gạch. Bây giờ thì dã man như ngụy, ăn bám, bóc lột… chỉ là điều mà người đứng ngoài tập thể của tôi gán ghép cho tôi, không đáng quan tâm về sự chân xác của nó. Ý niệm Trung quốc và man di chẳng hạn. Có điều sự gán cho thuộc tính nầy có tính cách áp chế và bắt tội, người trong tập thể chịu sự mạ lỵ đó, chấp nhận là thật. Chỉ còn bịt tai. Tôi đã bịt tai theo cách ai cũng làm lúc đó, tự biến thành cái ghế, cây cột, tự coi là cái lu, cái bàn. Sự hiện diện của tôi, một người, đã hóa thân thành sự hiện diện của một món đồ vật, thứ vô tri. Tệ hơn, tôi không còn hiện hữu dưới mắt họ, và tôi không còn hiện hữu với chính tôi. Vô lý hả? Thiệt đó. Nếu tôi hiện hữu tôi phải có thái độ chớ. Nhảy chồm lên, hay phản đối bằng lời, hay đỏ mặt mím môi, cùng hơn nữa, nuốt nước miếng. Vậy mà tôi đã làm gì? Dửng dưng không động tâm, không động thân.

 

Bây giờ trước câu nói vừa kể, tôi phản ứng, và phản ứng quá lố nữa là khác. Người vợ chia sẻ ngọt bùi đã nói một câu không còn trời đất nào nữa. Người vợ đã đứng vô hàng ngũ người coi tôi là đồ vật. Đâu phải ngu! Tôi có cái triết lý của tôi chớ. Tôi có cái giá trị của tôi để làm chuyện nầy hay chuyện kia chớ. Hối lộ là chuyện quá dễ làm nhưng khó tránh. Tôi tránh hối lộ để thấy mình lớn, mình điều khiển mình. Như cha tôi thường nói khi tôi mới lớn: “Giặc ngoài dễ tránh, thù trong khó ngừa. Thù trong là những ham muốn làm hạ giá trị chính mình. Nhớ đó con.”

 

Tôi cãi hơi dài dòng với máu chạy rần rần trên mặt, trái với thói quen học được tám năm nay trong đó:

 

“Nghèo thì chịu, chớ bợn nhơ thì thà hồi nhỏ đừng cắp sách đi học, đừng có cha làm thầy giáo. Đừng ngồi trên thiên hạ để biểu họ làm điều hay điều phải, thúc đẩy họ chết cho tổ quốc.”

 

Vợ tôi ngó bằng đuôi mắt không đồng ý.

 

“Tiền tài như phấn thổ. Tôi tiếp. Chung quanh đây biết bao nhiêu người giàu nứt vách mà cũng sống dưới tấm ni-lông như mình. Đâu có bền! Không có thì khỏi mất, khỏi buồn.”

 

Vợ tôi lấy lược chải đầu.

 

“Anh không ngụy biện. Anh muốn an nhiên không nghĩ đến tiền.”

 

Nàng đứng dậy.

 

“Hối tiếc cho một hành vi đạo đức trong quá khứ sẽ làm biến phẩm hành vi đó đi. Phải sao chịu vậy.”

 

Tôi nhớ chuyện ông quan tuổi Tý tiếc mình sao không tuổi Sửu. Thằng đó cà rà chỗ mấy cái sập cách tôi vài thước, con vợ tôi ngó về phía đó.

 

“Nói chuyện với anh mệt quá, bất lực rồi viện dẫn nhân nghĩa để che đậy cho khiếm khuyết của mình.”

 

Tôi hết chịu đựng nổi, xô ngã công trình bảo vệ hạnh phúc mấy tháng nay, gằn giọng:

 

“Em lựa chọn người không đúng ý em, đó mới là khiếm khuyết, khiếm khuyết trong phán đoán.”

 

“Tôi đang sửa chữa.”

 

Câu nói như lưỡi cưa máy đi ngang qua mình tôi ngọt sớt.

 

Vợ tôi sáng mắt lên khi nó đi qua chỗ chúng tôi. Mặt nó trẻ hơn tôi, thân hình vạm vỡ rắn chắc với nụ cười sàm sỡ lưu manh. Tôi cố vớt vát:

 

“Không thể sửa chữa trong quá khứ, tương lai chưa có nên cũng không có chuyện sửa chữa..”

 

“ Rẽ hướng khác để tránh đi lối mòn sai lầm, đó là sửa chữa. Võ biền mà bày đặt văn chương!”

 

Tôi nuốt nước bọt và nuốt luôn trái cấm Adam xuống bụng.

 

Nàng biểu con tôi ăn rồi dọn dẹp, má lên văn phòng trại xếp thuốc men, tối về. Mắt nàng nhìn theo hướng nó đi về mé khu rừng cao su gần giáp bờ đá, chỗ mấy con tàu hư nằm ụ.

 blank


Tôi ực hết ly nước dối cơn đói còn đang mè nheo vì chưa được ăn đúng mức. Tôi nằm thở hào hển vì chuyện vừa rồi. Khi người ta có một mục tiêu thì tất cả những lý do đưa ra không phải vì giá trị của lý do mà vì cái mục tiêu. Tiền bạc hay ngu mà nàng đưa ra làm yếu tính của tôi chỉ vì miếng bửng xi măng lót đường rẽ về phía nó, tôi biết chớ sao không?

 

Khi xưa tôi nằm trong tù, khổ cực sao nàng không bỏ? Bây giờ đến bờ tự do sao lại nói chuyện chia ly? Hay lúc trước ở trong vùng xoi mói của người quen nên chưa tung hoành, giờ bốn bề xa lạ, không ai có quá khứ nên dễ dọc ngang?

 

Đứa con tôi rửa chén ở giếng về, nó dùng dằng:

 

“Má đi về phía vườn cao su chứ đâu có lên văn phòng trại. Thằng “Cọp” ghê lắm ba ơi!”

 

Tôi nạt ngang “Nín đi, mầy nhỏ biết gì”. Người ta đồn rùm beng là lớn nhỏ gì lên đó cũng nộp thịt cho “Cọp”. Con tôi nó còn ý thức thằng Cọp “ghê lắm”. Hèn gì nàng đòi rẽ hướng khác.

 

Một thằng mắc toi nào đó ca một câu “cải biên” mà làm tôi nhói tim “Đời người con gái, một lần đánh mất quần Jean, đau khổ thật nhiều…”

 

Tôi chợt có ý định giết vợ, bữa nào đó chận nó trên đường, làm bộ rủ ra cầu tàu vợ chồng tâm sự, bịt miệng nó trấn nước… ai biết! Nuôi ý nghĩ đó làm tôi thấy dễ chịu trong lòng.

 

Câu nói đã tạo bản án tử hình cho nó “Ai biểu hồi đó làm Tỉnh Trưởng mà ngu không ăn hối lộ.”

 

Nó hạ nhục chúng tôi quá, vậy khôn là ăn hối lộ? Chúng tôi, tất cả tập thể chúng tôi ngày xưa đã ngu kiểu đó? Chết là đáng. Tao ghét ai đứng trong hàng ngũ mà quay lại chưởi bới hàng ngũ đó. Mày trước chẳng hảnh diện vì tao sao?

 

Thấy con nhỏ còn ngồi co ro, tôi bật dậy xoa đầu nó, qua loa:

 

“Chắc má con gần về rồi, bả bực bội đi một vòng cho hạ hỏa trước khi lên văn phòng chớ gì.”

 

Rầy con rồi nói dối bằng một luận cứ khó chấp nhận, tôi thấy mình thiệt vô lý. Tôi xếp nó vào hàng trẻ con, không biết rằng nó đã vượt qua giai đoạn này bằng tám năm bươn chãi không có tôi ở nhà. Nó trưởng thành bằng chính sự xé rách thân thể mình trong cuộc hải trình tìm sống. Không một đứa trẻ nào còn là trẻ con khi chứng kiến bao nhiêu chuyện kỳ lạ chung quanh. Sự ngây thơ biến mất bởi những khí độc: mèo mở, thay đổi, giành giựt, gấu-ó-vì-bất-cứ-một-thứ-gì-có-thể-chiếm-hữu, như mây đen ám chướng che mờ các sinh hoạt trong trại. Tôi xếp loại con tôi vào hàng trẻ con như vợ tôi đồng dạng tôi với “võ biền”.

 

Võ biền sao được khi trong chiến đấu tôi vẫn mở mắt ra để thấy tất cả những biến chuyển chính trị chung quanh ồn ào sôi sục, phải tìm những kết luận triết lý cho từng số phận hẩm hiu của người dân trong vùng tôi coi sóc. Võ biền sao được khi tôi phải trang bị cho mình bằng thật nhiều ý nghĩ khôn ngoan để tránh khỏi điên rồ trong những năm tháng đáng quên đó?

 

Con người ta trong hoàn cảnh nầy dễ bị xếp loại, xếp hạng. Tôi nhớ cha con tôi và bao nhiêu người trong trại đã nhìn ông thầy tu người Thái với ánh mắt đã nhìn tên hải tặc từng nằm thở trên mình nó… Biết bao nhiêu lần Thầy làm lễ mà trí tôi lơ mơ nghĩ về thời gian hãi hùng của hai tháng trước và chỉ muốn đá ghế bước ra ngoài. Tôi thiếp đi trong mớ bòng bông khổ sở đau đớn, mơ hồ hình ảnh Đức Phật trên bục cao hiền từ, thanh tịnh..

 

Giật mình tỉnh dậy khi nghe tiếng con nhỏ kêu hỏi:

 

“ Ba ơi, mấy người trên trại về hết rồi sao má chưa về?”

 

Tôi biểu nó ra ngóng ở đầu dãy coi, nó chạy đi rồi tôi mới thấy mình là lạ. Từ đó về đây vài bước chớ mấy, tại sao phải ra đó trông chừng? Tại sao tôi buồn hắt hiu từ lúc nó đi tới bây giờ chớ? Nó phải lên văn phòng giúp xếp lại thuộc men chứ có gì đâu? Thằng Cọp “ghê” lắm nhưng làm được gì. Ở đấy còn mấy đứa nữa, đâu có dễ! Miệng thiên hạ độc địa, hơi nào nghe. Ở trại, đâu phải trên biển nữa, trừ phi quyến rũ bằng tiền bạc. Cái lưng to bản. rắn chắc hằn vào lớp áo sơ mi của thằng Cọp khiến tôi nhớ lại mình đang bịnh hoạn, ốm yếu, sinh lực bị vắt cạn thời gian chưa bù lại được.

 

Tôi liếc mắt xuống chỗ ông lò, chỗ để con dao dùng trong việc bếp núc.

 

Hai mẹ con nó tíu tít, choàng hông nhau đi vô. Người mẹ ngó tôi có chút bối rối, bẽn lẽn. Một mớ tóc hoang dại phất phơ trên đầu như vừa trải qua một trận phong ba. Đứa con tôi nhìn thấy gì đó không ổn nơi tôi, vẻ sợ hãi lộ trên gương mặt. Nó đứng im, mặt tái xanh, ngó cha rồi ngó mẹ.

 

Tôi mỉn cười thân thiện hỏi em đi đâu mà không cần nghe người đàn bà vừa trả lời vừa tìm trong trí những lý do nầy nọ. Tôi biết mình thua cuộc, bỏ ý định trừng phạt người đàn bà đó. Tôi không thua ai hết, không thua đời, không thua xã hội mà thua tương lai của con tôi, thể hiện qua ánh mắt sợ hãi của nó một giây trước.

 

Houston, TX, 1985.

 

Nguyễn Văn Sâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.