Hôm nay,  

Viết Về Trật Tựï Viên Trong Laọ Tù CS

25/07/201800:00:00(Xem: 7115)
Buiphu/VBMN

 
Trong các trai tù cải tạo của CS trên toàn nước VN, CS đều áp dụng chánh sách dùng tù nhân để trị tù nhân, do đó chúng tìm mọi cách áp đặt, dụ dỗ cho đến mua chuộc những tù nhân,vì chịu đưng kham khổ không nổi, ham sống sợ chết, sẵn sàng tự nguyện hợp tác với CS, phản lại anh em, đâm sau lưng chiến hữu. Trong nhà tù, CS phân chia thành phần tù nhân để dễ quản lý như nhà trưởng, nhà phó, tiểu đội trưởng, tiểu đội phó. Ngoài ra CS còn tuyển lựa một số anh em tù làm Trật tự Viên và an-ten đểå chúng có thể kiểm soát mọi sinh hoạt cá nhân của tù nhân hàng ngày trong trại và quan trọng nhất là kiểm soát ngay cả tư tưởng anh em tù nhân hầu chúng có thể ngăn chăn kip thời những biến cố quan trọng không may có thể xẩy ra trong trại tù.nếu một khi có những tù nhân nào bất mãn, có ý định chống đối hay gây bạo động hoặc trốn trại hay có tư tưởng trốn trại Những thành phần được CS ưu tiên cho đi lại tư do trong trại, không phải đi lao động khổ sai như các tù nhân anh em khác, điểm đặc biệt hơn hết là CS lại ban phát cho các tù nhân này được ưu tiên thăm nuôi 24./24 giờ với chính vợ con của mình. Cho nên có những anh em tù nhân vì chịu đựng kham khổ không nổi, sẵn sàng cộng tác với CS để đầy đọa anh em bạn tù. Điều đáng sỉ nhục và hổ thẹn nhất là CS đã lợi dụng tình cảm thiêng liêng cao quý nhất của con người giữa nam và nữ mà Thượng Đế đã ban phát cho loài người để sinh tồn làm phần thưởng mua chuộc đãi ngộ cho các tù nhân bất hạnh, khốn cùng...

Trại tù Gia Rây Xuân Lộc có 4 trật tự viên: Tên Muôn tự Sáu Muôn,một tên du đãng, thủ du thực nhà ở Biên Hòa, tên Hải Lông Ngực( vì hắn có chùm lông đen, đậm trước ngực), Tống Thành Thới tự Con kiến Càng vì có thân hình lực lưỡng cân đối khỏe mạnh đã từng dự thi lực sĩ đẹp trước đây, còn Lạc Nhơn Thu,tùng sư tại biệt Đoàn 222 thuộc khối Dã chiến BTL/CSQG đệ tam huyền đai, huấn luyện viên võ thuật ở Biệt Đoàn và Bộ tư lệnh CSQG/VNCH và 1 số An-ten  ẩn danh rất nguy hiểm. Được biết 2 trậït tự viên Tống Thành Thới và Lạc Nhơn Thu thì không có gì đáng nói và ít gây hận thù với anh em bạn tù vì 2 người này rất tế nhị, luôn biết điều phải trái mỗi khi anh em nào bạn tù nào không may vi phạm nội quy của trại như nấâu nướng linh tinh ngoài trời để cải thiện cuộc sống cá nhân. Thậtä vậy, khoảng năm 1989, khi 1 số sĩ quan cấp tá từ ngoài Bắc chuyển về Trại Tù Gia Rây Xuân Lộc Đồng Nai, mới đầu anh em tù nhân cấp tá đồng loạt đình công,và đưa ra yêu sách không chịu đi lao động, CS bèn cử 2 tên trật tự viên Tống Thành Thới và Lạc Nhơn Thu qua lán sĩ quan cấp Tá để trấn áp họ, nhưng khi tên Lạc Nhơn Thu bất ngờ gặp mặt người thày cũ ở khối huấn luyện BTLtrước đây với cấp bậc võ thuật đệ lục huyền đai, hắn là người có lương tri lại trọng tình nghĩa thày trò nên hắn kiếm cớ viện dẫn nhiều lý do hầu từ chối đàn áp theo chỉ thị của CS, do đó CS bèn áp dụng phươbg pháp khác bằng cách truy tìm bắt nguội người đứng đầu tổ chức và vô hiệu hóa những anh em chống đối nên cuối cùng các sĩ quan cấp tá cũng phải bị khuất phục, bất đắc dĩ nhẫn nhục đi lao đông cũng giống như những anh em tù nhân khác trong trại. Ngoài ra, CS lại luôn khuyến khích và hứa hẹn đủ điều với những thành phần công tác với chúng: các anh cố gắng làm tốt những công việc trại giao sẽ ưu tiên được CM xét tha cho về sơm đoàn tụ với gia đình cũng như ưu tiên được phép thăm 24/24 với vợ thân yêu của mình nên những kẻ vì tham vọng quyền lợi cá nhân, sẵn sàng cộng tác với CS, phản bội lại anh em, không từ nan đâm sau lưng chiến hữu với bất cứ giá nào.

Điển hình 2 tên Trật tự viên 6 Muôn và Hải lông ngực là 2 kẻ mất lương tri, đã bán rẻ linh hồn cho CS, chúng đã gây nên biết bao điềâu phiền phức và ân oán với anh em bạn tù, chúng cứ tưởng rằng nếu chúng nhiệt tình hăng say với công việc CS giao phó, chúng sẽ được CS cứu xét cho về trước sớm hơn các anh em bạn tù khác do CSõ từng hứa hẹn nhưng chúng đã lầm vì đôi khi chúng lại về sau những anh em bạn tù khác tùy theo tộïi trạng của mỗi người mà CS đã ấn định trước. Thật đúng câu nói để đời của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi còn sanh tiền: Đừng có nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm.”

Được biết tên 6 Muôn, sau khi được CS tha về định cư nơi quê quán tại Biên Hòa, dường như hắn cũng lường trươc được những hậu quả mà hắn đã gây ra trước đây trong lao tù CS với các anh em bạn tủ nên hắn rất hạn chế và luôn né tránh tiếp xúc mọi người, nhưng hắn đã lầm, vì một số anh em bạn tù về trước nghe tin hắn được CS thả về, họ đã nhanh chóng chiếu cố tìm hắn để giải quyết ân oán giang hồ cá nhân, nhưng hắn đã nhanh chân lẩn tránh nên mọi việc đáng tiếc đã không xẩy ra.

Còn tên Hải lông ngực, sau khi CS tha về, cũng tìm đường vượt biên đến được đảo Bidon Thái Lan, nhưng bất hạnh cho hắn đã gặp ngay một chiến hữu bạn tù ở cùng trại Gia Ray Xuân Lộc được CS tha về đã vượt biên trước hắn,lại là thành viên trong Ban thanh lọc, nên khi tên Hải lông ngực được kêu lên phỏng vấn, hắn hết đường chối cãi và đã thú nhận mọi tội ác mà hắn đã đối xử tàn nhẫn với anh em bạn tù khi cộng tác với CS trong lao tù. Ban thanh lọc không ngần ngại quyết định cách ly tên Hải lông ngực qua một trại riêng biệt để tránh việc trả thù của những anh em tù vượt biên khác khi biết được việc hắn cộng tác với CS đầy đọa anh em trong lao tù mà hắn còn bị Phái Đoàn thanh lọc từ chối không cho được định cư tại nước Mỹ, và nghe nói hắn chỉ được may mắn định cư ở một nước thứ ba như Canada, Úc, Pháp, v..v…

Ngoai ra cũng có tên trật tư hiên ngang đi theo diện HO và được nhập cư tại Hoa Kỳ dù hắn cố tình sống ẩn danh, hạn chế sinh hoạt, tụ tập nơi đông người, tránh né như chim bị đạn nhưng một khi bị anh em tù chung nhận diện phát hiện điểm mặt đích danh thì hắn cũng bị Cộng đồng tỵ nạn cách ly, phê phán gắt gao và không cho đứng chung cùng chiến tuyến trong mọi sinh hoạït của Cộng Đồng tỵ nạn.

Nội bật nhất là tên Trật tự Bùi Đình Thi, nổi tiếng tàn ác và gây nên nhiều tội ác, tra tấn đến mất mạng với chiến hữu bạn tù vượt trại là cựu Dân biểu Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn đã được Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, một nhân chứng còn sống sót sau những trân đòn điên cuồng khát máu của Bùi Đình Thi dã diễn trình đầy đủ trong một tập chuyện kể rõ nội vu: “Một vấn đề của lương tâm” đã được phổ biến rộng rãi trên báo chí Việt ở một số Tiểu Bang trên nước Mỹ không ai không biết đến nỗi Tòa Án Di Trú San Pedro Califonia sau khi nhận được đơn tố cáo với chứng cớ đầy đủ về tội ác của hắên, nên đã ban hành lệnh tống xuất hắn về VN vào khoảng tháng 4./2004 trong khi chờ thỏa hiệp của 2 chinh phủ VN và Hoa Kỳ, sau đó hắn được đưa đến giam giữ tại trại tạm giam của cơ quan di trú trên quần đảo Marshall ( Republic of the Marshall Islands) và cũng bất hạnh cho hắn trong khi hắn chưa kịp về chầu quê cha đất tổ thì thần chết đã không buông tha hắn và đã mang sinh mạng hắn về bên kia thế giới làm bạn với quỷ thần. Thật đúng câu:” Ác giả, ác báo” không sai.

Tóm lại, trong những lúc khốn cùng, bản chất của con người đều lộ rõ rệt nhất nếu người đó vì quyền lợi và tham vọng cá nhân, lại chịu đựng kham khổ không nổi, sẵn sàng bán rẻ lương tâm cộng tác với CS, phản bội lại anh em, đâm sau lưng chiến hữu của mình như đã từng xây ra trong các lao tù CS.

Nói đến tù nhân cải tạo bất đắc dĩ, không bản án là nói đến chuyện dài nhiều tập trong lao tù CS không bao giờ chấm dứt vì một khi con người bị tước đoạt mất hết mọi quyền tự do tư tưởng cá nhân, lại phải gánh chịu mọi điều  đắng cay, tủi nhục không sao kể siết, như vậy cuộc đời thật còn gì thấm thía và tràn đầy ý nghĩa hơn như trong tục ngữ  Cổ nhân thường nói: “Nhật nhật tại tù, thiên thu tại ngoại.”

BUIPHU/VBMN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.