Hôm nay,  

Quốc Ca Mới Của Đảng

01/10/201811:38:00(Xem: 5075)

QUỐC CA MỚI CỦA ĐẢNG

 

ĐIỆP MỸ LINH

 
Mở youtube do người bạn vừa chuyển đến, tôi rất ngạc nhiên khi nghe tiếng trumpet saxophone trổi lên bài Quốc ca của Cộng Sản Việt Nam (C.S.V.N.).  Nhìn vào youtube tôi mới thấy dòng chữ Quốc Ca Mới của C.S.V.N.. Tôi tự hỏi, đây là nhạc điệu của bài Tiến Quân Ca do Văn Cao sáng tác – C.S.V.N. dùng làm Quốc ca – chứ có khác chi đâu mà bảo “mới” thì tiếng hát vang lên: “Đoàn quân Cộng nô đây chung lòng bán nước. Lấy Vân Đồn đem giao cho quân ngoại xâm. Đường biên giới phía Bắc đâu còn nữa, chúng dời sâu vô phía bên Việt Nam! Và hôm nay Phú Quốc với Vân Phong, chúng cho quân Tàu thuê lập đặc khu! Vì đô la chúng quyết không dừng, quyết cho ra luật rừng. Nhấn…(nút) đi! Và bấm đi! Nước non Việt Nam ta… bán rồi!” Tôi ngồi lặng yên, buồn và thầm cảm phục tác giả lời ca mới của Quốc ca C.S.V.N.. Tôi nghĩ, sự phẫn uất trong lòng tác giả của lời ca mới phải cao ngất Trời cho nên tác giả mới có thể viết được những dòng chữ không thể nào xác thực hơn! (nguồn https://m.facebook.com/story.p hp?story_fbid=2493093137371637 &id=100000129254400) .

Tôi không hiểu người C.S.V.N. nghĩ như thế nào khi bài Quốc ca của người C.S.V.N. bị người dân sửa lời ca để chế nhạo/phỉ bán một cách chính xác về những thủ đoạn phản quốc/bất lương mà lãnh tụ và người C.S.V.N. đã và đang âm thầm thực hiện để bán trọn nước Việt Nam cho Trung Cộng? Riêng tôi, nếu bài Quốc ca của đất nước tôi bị sửa lời ca để nhạo bán vì hành động thấp hèn/bán nước của giới lãnh đạo thì tôi sẽ vô cùng đau buồn và tự ái dân tộc trong tôi sẽ “bùng” lên! Còn những người trực tiếp phục vụ dưới lá cờ đỏ sao vàng và thường hát bài Tiến Quân Ca mỗi khi chào cờ như công an và bộ đội cụ Hồ – nhất là bộ đội cụ Hồ “xưa” – nghĩ như thế nào khi nghe bài Quốc ca mới đầy “ấn tượng” và chua chát này?

Tôi dùng “cụm từ” bộ đội cụ Hồ “xưa” để xác định sự khác nhau giữa bộ đội cụ Hồ trước ngày 30 tháng Tư năm 1975 và bộ đội cụ Hồ sau 1975.

Đối với tôi, bộ đội cụ Hồ sau 1975 không chịu trách nhiệm về hai cuộc chiến chống Pháp và đánh Mỹ để cướp miền Nam Việt Nam; lại được mặc quân phục hẳn hoi. Bộ đội cụ Hồ sau 1975 cũng không chịu trách nhiệm về cuộc thảm sát Mâu Thân – giết hại khoảng 6.000 thường dân vô tội tại Huế – và những cuộc tấn công quy mô rồi pháo kích trực tiếp vào đoàn thường dân lánh nạn chiến tranh, tạo nên Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quãng Trị, 1972. Bộ đội cụ Hồ sau 1975 không chịu trách nhiệm về những loạt pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy và bệnh viện Long An; những loạt pháo kích hỏa tiễn 120 ly vào đoàn người chạy loạn từ Huế vào Đà Nẵng. Bộ đội cu Hồ sau 1975 ít cơ cực/ít nguy hiểm và mức độ tàn ác của họ đối với người miền Nam chúng tôi cũng tương đối ít hơn bộ đội cụ Hồ “xưa”.

Bộ đội cụ Hồ “xưa” có công “vỹ đại” là đánh đuổi thực dân Pháp và “đánh Mỹ kíu nước” để suốt hơn 40 năm qua, đảng và ban lãnh đạo C.S.V.N. bán từng phần, từng phần đất nước Việt Nam cho Trung Cộng!

Thì ra, tuổi trẻ/máu xương và công khó của các anh bộ đội cụ Hồ “xưa” trong các trận xung phong biển người tại Điện Biên Phủ, cũng như dọc dãy Trường Sơn và trong các cuộc đụng độ ác liệt với các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (Q.L./V.N.C.H.) chỉ để cho Nguyễn Phú Trọng và đồng bọn bán trọn nước Việt Nam cho Trung Cộng – kẻ thù truyền kiếp của người Việt Nam!

Khi biết được ba yếu điểm quân sự quan trọng cuối cùng của Việt Nam – Vân Đồn, Vân Phong và Phú Quốc – đã được Nguyễn Phú Trọng và đồng bọn bán cho Trung Quốc, các anh bộ đội “xưa” có đau lòng/có phẫn uất hay không? Hay là vì các anh bộ đội “xưa” bị đảng và “nhà nước” C.S.V.N. tuyên truyền/áp đặt chính sách “bần cùng hóa nhân dân” từ xa xưa cho nên các anh đã quen giao vận mệnh của các anh – và ngay cả vận mệnh của đất nước và dân tộc – vào sự chỉ đạo của cụ Hồ/đảng/“nhà nước” C.S.V.N. cho nên các anh, dù đau lòng, cũng không dám tỏ thái độ? Các anh có oán hận đảng và “nhà nước” C.S.V.N. đã dùng luận điệu tuyên truyền dối trá/lường gạc các anh suốt mấy mươi năm dài để khởi động và theo đuổi hai cuộc chiến không cần thiết, để thiu rụi cả mấy triệu quân dân người Việt, với chiêu bài chống thực dân Pháp và chống Mỹ hay không? Hay là các anh im lặng vì các anh nghĩ rằng, các anh già rồi, biết sống được bao lâu nữa mà tranh đấu làm gì?

Hỡi các anh bộ đội cụ Hồ “xưa”! Người già cũng có phương cách của người già để thể hiện lòng yêu nước và biểu lộ niềm tự ái dân tộc. Hơn ai hết, các anh biết rõ những mưu lược/những xảo trá/những gian manh/lừa lọc của đảng và nhà cầm quyền C.S.V.N.. Các anh hãy vạch rõ tội trạng của đảng và bè lũ C.S.V.N. cho người trẻ hôm nay biết để người trẻ hôm nay nhận định và ứng phó với từng hoàn cảnh. Các anh hãy xuất hiện/yểm trợ người trẻ và toàn dân Việt Nam để nhân cơ hội này phá tan chế độ tàn ác/sắt máu/vô lương và phản quốc của đảng và người Cộng Sản Việt Nam!

Nếu các anh bộ đội cụ Hồ “xưa” thực hiện được vài điều như tôi đã đề nghị ở phân đoạn trên thì, tôi nghĩ, linh hồn của người thân/của bạn hữu/đồng đội của các anh đã tử trận trong hai cuộc chiến vừa qua – do C.S.V.N. chủ xướng – sẽ bớt ngậm ngùi!

Khi cuộc chiến thứ hai chấm dứt vào ngày 30-04-1975, tôi cảm thấy tội nghiệp cho các anh bộ đội cụ Hồ “xưa”. Ai đời, sau khi “giải phóng” miền Nam khỏi “ách kềm kẹp” của Mỹ Ngụy, các anh bộ đội cụ Hồ “xưa” – với bộ bà ba đen bạc màu, nón cối, dép râu – lại tịch thu của Ngụy từng con gà/con vịt/con búp bê/cái đài (radio)/xe đạp rồi “hồ hởi” quảy trên vai để lên xe đem về Bắc khoe với bà con trong xã hội Chủ Nghĩa!

Thật ra, không phải đợi đến sau 30-04-1975 tôi mới thấy được hình ảnh bết bát/quá tệ của bộ đội cụ Hồ “xưa” mà tôi đã biết bộ đội cụ Hồ “xưa” khởi đầu là những anh chị nông dân chất phát/hiền lành/không có học vấn cùng với sự hợp tác rất nhiệt thành của thanh niên trí thức miền Nam thoát ly ra “vùng giải phóng” – trong số này có Ba tôi – để chống Tây.

Với hoài bảo chống Tây, nhưng Ba tôi chỉ được giao trọng trách lo về văn nghệ và động viên cũng như đả thông tư tưởng của cán bộ/bộ đội và mỗi tối dạy Pháp văn cho cán bộ cao cấp tại làng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, thuộc liên khu V. (Mời đọc tại link này để thấy rằng tôi không thiên lệch. (http://www.diepmylinh.com/qua-lang-son-tinh)



Chính thời gian sống tại làng Sơn Tịnh chị em tôi mới thấy được sự “can đảm/anh hùng?” của nam nữ du kích và bộ đội cụ Hồ. Trong ánh mắt trẻ thơ của chị em tôi – hai đứa bé thành thị – hình ảnh nam nữ du kích và bộ đội cụ Hồ với bộ đồ bà ba đen rộng thùng thình, đội mũ cối hoặc mũ tai bèo, chân mang dép râu và vai đeo cây súng, trở thành hình ảnh vừa kỳ lạ vừa quái dị!

Tôi không nhớ, không biết loại súng mà du kích và bộ đội “xưa” tại làng Sơn Tịnh thường mang trên vai là loại súng gì. Nhưng tôi nhớ hình dáng cây súng có nòng súng quá dài so với thân người nhỏ nhắn, gầy gò của người dân quê trong giai đoạn thi hành chính sách “tiêu thổ kháng chiến”. Vì chiều dài của cây súng, du kích và bộ đội “xưa” lúc nào cũng phải đeo cây súng trong tư thế nòng súng chỉa lên Trời thì mới có thể đi đứng được.

Mỗi khi máy bay “bà già” – danh từ thời đó thường dùng để chỉ phi cơ quan sát – “nhởn nhơ” bay lượn trên không trung thì nam nữ du kích hoặc bộ đội cụ Hồ đưa súng lên, không cần nhắm, “thảy cái bùm” rồi nhanh chân chui xuống hầm, trốn.

Lần nào cũng vậy, sau những hành động “anh hùng?” của du kích và bộ đội cụ Hồ thì chiếc “bà già” cũng bay mất. Không lâu sau đó, máy bay oanh tạc bay đến, bắn, thả bom nát cả khu vực rồi nhiều mái tranh nghèo hừng hực lửa!

Sau khi oanh tạc cơ rời mục tiêu, gia đình tôi chui ra khỏi hầm. Chị em tôi kể cho Ba tôi nghe về hành động “anh hùng, cảm tử?” của nam nữ du kích quân và bộ đội cụ Hồ. Ba tôi cười “nửa miệng” rồi giải thích:

-Đó không phải là hành động anh hùng. Đó là hành động điên rồ vì ngu xuẩn/dốt nát/thiếu hiểu biết, đã vô tình “lạy ông tôi ở bụi này” để chỉ điểm cho tụi Tây đưa phi cơ oanh tạc đến “cày” nát và đốt cháy thôn làng!

Chị em tôi buồn hiu vì thất vọng! Tối đó, thế nào cũng có anh bộ đội đến nhà, yêu cầu Ba tôi phải viết bài, lên án gắt gao sự dã man, tàn ác của bọn thực dân Pháp để ngày hôm sau đưa cho cấp trên đọc trong buổi kiểm thảo.

Sau này, sống tại miền Nam và đủ hiểu biết, tôi thấy, mỗi khi nghe radio, đài của C.S.V.N. bảo rằng “Đồng chí gái chỉ với cây CKC mà hạ được phi cơ phản lực của Mỹ Ngụy”, Ba tôi cười khẩy, lắc đầu, tắt radio, bảo:

-Đồ ba xạo!

Chị em tôi lại hỏi Ba tôi:

-Tại sao Ba bảo là họ xạo?

-Tốc độ máy bay phản lực của Mỹ chỉ có súng tầm nhiệt SAM mới “trị” được thôi.

Trên đây là chuyện “ba xạo xưa” của người C.S.V.N.; còn chuyện “ba xạo” gần nhất, “lẫy lừng” nhất thế giới là chuyện Trịnh Xuân Thanh – đại biểu Quốc Hội C.S.V.N. khóa XIV và cũng là một cán bộ cao cấp – bị truy tố về tội tham nhũng. Bộ Công An ra quyết định truy nã Trịnh Xuân Thanh trên toàn quốc và truy nã quốc tế.  Trịnh Xuân Thanh đã trốn được sang Đức rồi mà Trịnh Xuân Thanh còn “tự động?” vượt không gian, trở về Việt Nam để “đầu thú” thì không ai có thể không cười!

Không thể nào viết cho hết sự gian xảo/lưu manh và “ba xạo” của người C.S.V.N. được, cho nên, tôi xin gửi đến Người Trẻ Việt Nam hôm nay, các anh bộ đội “xưa” và tất cả người Việt Nam thân thương – đã/ đang/sẽ tiếp tục thể hiện lòng yêu nước cũng như bộc lộ niềm tự ái dân tộc bằng cách triệt để ủng hộ và tham gia các cuộc biểu tình tại Quê Nhà – vài phân đoạn trong bản hùng ca Khỏe Vì Nước của nhạc sĩ  Hùng Lân, sáng tác tại miền Nam, trước 1975:

“… Khoẻ vì nước chí khí cương kiên
Giống Lạc Hồng uy hùng vô biên
Trong khốn nguy can trường sống thác ta coi thường
Việt Nam thanh niên anh dũng muôn  năm.

Thanh niên ơi, hồn thiêng núi sông đợi chờ
Nơi tay ta toàn dân ngóng trông từng giờ
Mang máu anh hùng ta đừng làm nhơ máu anh hùng
Trai đất Việt phải nêu đèn sáng thế giới soi chung.

Dân sinh yếu nhược lôi ta đến đường vong  quốc
Dân sinh dũng cường đưa ta tới đài vinh quốc
Mau gây lấy phong trào khoẻ khắp nơi xa gần
Cho dân trí quật cường và hưng phấn
Nghìn đời không mờ ánh Duy Tân!” 

 

          Tình yêu nước trong lòng người miền Nam chúng tôi được khơi động, tích lũy và vun bồi từ nền giáo dục đầy đạo đức/nhân bản và những hùng ca như Khỏe Vì Nước, Cô Gái Việt, Bach Đằng Giang, Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam, Học Sinh Hành Khúc, v.v… Nhờ vậy, dưới thời V.N.C.H. – dù bị bộ đội “xưa” tấn công hết sức dã man và khốc liệt trên toàn lãnh thổ miền Nam – Quân Lực V.N.C.H. cũng vẫn giữ vững bờ cõi. Không một tất đất nào của V.N.C.H. bị ngoại ban làm “đặc khu” – ngoại trừ Hoàng Sa.

          Sự việc V.N.C.H. phải mất Hoàng Sa vào tay Trung Cộng là do đảng và người C.S.V.N. đã “cỏng rắn cắn gà nhà”/đồng lỏa với Trung Cộng rồi âm mưu mở nhiều mặt trận ác liệt trên khắp miền Nam Việt Nam để chi phối lực lượng của Quân Lực V.N.C.H. trong khi Trung Cộng mở cuộc tấn công vào Hoàng Sa.

(Muốn biết thêm chi tiết về lý do V.N.C.H. phải mất quần đảo Hoàng Sa, mời xem 2 links này: http://www.diepmylinh.com/gop-y-voi-le-ma-luong và http://www.diepmylinh.com/gop-y-voi-bill-hayton)       

Người C.S.V.N. đừng vội đem Chợ Lớn ra để kết tội V.N.C.H., nhé! Người Tàu Chợ Lớn sống hòa đồng với người Việt. Người Tàu Chợ lớn tuân thủ mọi luật lệ của chính phủ V.N.C.H.. Quan trong hơn cả là: Người Tàu Chợ Lớn cũng nhập ngũ hoặc thi hành lệnh động viên của V.N.C.H.; rất nhiều người Tàu Chợ Lớn trở thành sĩ quan trong tất cả quân binh chủng Q.L./V.N.C.H.. Nếu cần, tôi có thể dẫn chứng vài sĩ quan Hải Quân gốc Chợ Lớn từng phục vụ tại các đơn vị tác chiến Hải Quân V.N.C.H.. Ngược lại, rất ít người Tàu Chợ Lớn bỏ vùng Quốc Gia để trốn theo Việt Cộng.

Còn bây giờ – sau khi người C.S.V.N. đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào để áp đặt tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện kế hoạch 100 năm trồng người cho toàn dân nước Việt Nam – tại sao người dân lại dựa theo bài Quốc ca của đảng và người C.S.V.N. để nêu ra gần như đầy đủ/trọn vẹn những hành động phản quốc/bán nước của đảng và người C.S.V.N.?

Câu hỏi trên đây chỉ có các “đồng chí” – và cũng đồng lòng bán nước – Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang và Nguyễn Thị Kim Ngân mới có thể giải thích được!

 

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.