Hôm nay,  

Sự Lựa Chọn Sòng Phẳng

09/10/201811:16:00(Xem: 4055)

Máy bay lướt ngang thảm nước biếc bao la mút thẳm phía dưới, trí Nết chập chờn về những tháng ngày vừa qua, đăng đẳng vô vị đến tội nghiệp mình: bị xâu xé trong tính toán về / ở và làm chứng nhơn cho những điều nghịch thế nửa khóc nửa cười. Ngó xiêng nghiêng theo cánh máy bay, dõi mắt nhìn sự mềm mại tuyết trắng của lớp mây phía dưới, Nết so sánh đời mình với lớp mây kia. Mây vô định, bất trắc nhưng ít ra được nhởn nhơ không đau khổ về hoàn cảnh trái ý… Hành khách chung quanh sao mà vô tư, mình thì bận bịu về ý phải đưa ra cho những câu hỏi của người lối xóm tò mò. Thấy trước trong ánh mắt của những cô bạn gái chung quanh lóa lên tia thương hại rằng mình chướng khí, cờ vô tay không phất thì thôi lại còn liệng xuống đất đạp đạp.

Đổi lại thế ngồi để cắt đứt dòng suy nghĩ, Nết trầm trồ trong bụng về mấy ngón tay sơn vẽ của người đờn bà hơi cứng tuổi ngồi đầu hàng ghế bên kia đường đi: bóng chuốt, trang trí tỉ mỉ bằng những bông hoa sặc sỡ. Ngó xuống móng tay mình, trơn tru, coi quê mùa cách gì, tự nhiên Nết mỉn cười. May mà mình chưa quen với cách trang điểm thời thượng đó, mang bộ móng đỏ nầy về càng nhục hơn…

Đò Đại Ngãi ủi vô bến, người lái đò tắt máy, gài thắng rồi bước mau ra trước bỏ tấm bửng ở đầu mũi xuống, gác kê lên bờ đất. Tiếng máy xe của hành khách nổ điếc tai chừng năm bảy phút rồi trả lại cảnh ngáy ngủ cho toàn khu vực. Đời sống ở quê nhà vẫn như bao nhiêu năm trước, trầm lặng tiếp nối. Nết hít thiệt sâu không khí thân thiết mùi quê hương rơm rạ, chỗ chôn nhao cắt rún của mình rồi đưa mắt quan sát cảnh vật chung quanh, thay đổi tuy có nhưng chậm như rùa nên không lạ lẫm bao nhiêu, Ông lão ngày nay đi bừa là con ông lão ngày xưa đi cày; ông lão ngày xưa đi cày là cha ông lão ngày nay đi bừa (thơ PPL). Vậy đó dòng đời trôi chảy, người đi sau con trâu hay còng lưng gánh nặng những nông sản không bao nhiêu tiền. Tấm bảng lớn chào mừng quý khách đến Thị Trấn Cù Lao Dung màu xanh nước biển lâu ngày biến thành nhờn nhợt mốc thích. Con đường độc đạo xuyên qua cù lao đi về phía bến đò Đại Ân 2 vẫn buồn như thuở nào. Hai bên mép đường lác đác những căn nhà lụp xụp, thấp thoáng phía trong có người đàn bà ngồi bệt xuống đất bắt chí cho con trong khi bên ngoài hai ba cái bàn ọp ẹp thỉnh thoảng có những thanh niên lưng trần, ốm yếu, đương đánh vật với mấy rượu đế ngâm đá cục. Mấy quài dừa xiêm để ơ hờ ngoài mép cửa. Gần tới nhà, trước khi quẹo vô xóm mình, Nết đứng lại ngắm nghía cảnh vật chung quanh, luôn tiện tránh hai người đàn ông đương quàng vai nhau đi ngất ngơ coi thiệt thanh bình. Một người đàn bà lật đật nách con đứng lên đon đả ra hỏi Nết:

‘Bây về hồi nào vậy Nết, sao mau vậy, bộ nhớ tía bây hả?’

Nết trả lời cho qua chuyện:

‘Nhớ xóm nhớ làng phải về thăm thôi. Để lâu con cái đùm đề còn đi đâu được nữa. Thấy tía tôi có nhà không Xẩm Ba?

Xẩm Ba bước ra ngoài mái hiên, xòe bàn tay che nắng cho đứa nhỏ:

‘Mới thấy tía bây tiếp người khách ở dưới xóm Đài Loan lên đó. Nghe đâu nhà họ có người đau bụng đẻ trâu, rặn hồi hôm tới giờ, nhờ tía bây cho thuốc trục. Trời! Bây mới qua bển có mấy tháng mà coi quá. Mát da mát thịt dàng trời!’

Nết cười bẻn lẻn cám ơn, chào Xẩm Ba rồi quay lưng rẽ vô đường hẻm nhà sau khi đưa tay véo nhẹ má thằng nhỏ kháu khỉnh đương ngậm chàm bàm một búng cơm. Nết gặp tía mình đưa một người thanh niên ra tận vuông rào và đương lập lại câu dặn dò:

‘Lựa một trái đu đủ lớn mà còn xanh nha, càng xanh đậm càng tốt, cắt hai theo bề dọc, đừng rữa mủ gì hết, cứ để vậy, úp vô lòng hai bàn chưn chừng mười lăm phút thì đẻ được thôi. Coi chừng khi đứa con ra rồi, nhao coi bộ hết thì lấy đu đủ bỏ đi không thôi tử cung tuôn ra theo đó. Nhớ nha, cẩn thận cái vụ này, hông phải giởn chơi đâu!’

Nết tươi cười chào người thanh niên quen biết:

‘Chào hia Hơn. Sao lập gia đình chưa?’ Có cái lắc đầu chán chường. ‘Lo làm ăn đi ông ơi, lông bông hoài quá tuổi phải ở góa đó. Ờ mà ai sanh khó vậy hia?’

Khách mắt sáng lên:

‘Chào Nết! Chị Hai tôi. Khổ quá, nhà đơn chiếc mà chuyện nầy chuyện kia hoài.

Ngừng một lúc hơi lâu, anh nói tiếp, chậm rãi:

‘Cũng muốn có gia đình để có cớ tu tỉnh làm ăn, nhưng xui là sanh ra trong xóm Đài Loan nên con gái đâu lọt tới phiên mình. Đành chịu ế độ. Thúi hẻo. Tháng rồi hai cô còn nheo nhẻo theo chồng xuất cảnh, tháng nầy rục rịch một cô nữa. Cha mình ăn mắm thì mình khát nước. Đời ổng trai thiếu gái thừa, đời mình có bao nhiêu con gái thì Đài Loan, Hàn Quốc vớt hết.. mình bơ mỏ khóc thầm cả đêm.

Tía Nết nghe lóm thấm ý mỉn cười nửa miệng nhưng không nói gì.

‘Thôi đừng quê xệ nữa, hia Hơn chịu khó đợi, để thủng thẳng tôi coi cô nào ở xóm nầy được được làm mai cho…’ Nết an ủi bạn và chấm câu bằng một cái le lưỡi rụt rè.

Người thanh niên cười buồn, chào hai tía con, quay đầu xe, mở máy chạy ra khỏi ngỏ.

Ông thầy thuốc đưa hai tay kéo cái va li của con, mắt ướt rượt:

‘Sao về mà không báo trước để tía đi đón hay bao xe lên thành phố rước con. Tính dấu được chừng nào hay chừng nấy mà con về bất tử nên cũng nói thiệt luôn. Thằng Na, em con mất rồi.’

Nết nghe như trời xập kế bên mình ầm ầm. Tiếng ông già đều đều mơ hồ như trong chiêm bao. ‘Nó đi nhậu dưới bến đò Đại Ân rồi qua bển cặp bè cặp bạn chạy chơi sao đó, không đội nón bảo hộ còn cự cãi với công an giao thông. Bị bắt về đồn. Chiều hôm sau tía được báo tin là tối đó nó thắt cổ bằng tấm ra trãi giường. Thảm quá! Vú con ở dưới nghe chuyện nầy chắc chết thêm lần nữa!’

Cả không gian tối sầm, những cột, vách căn nhà ngã xiêng theo nhau xụp xuống, Nết bấu vô cái bàn nước giữa nhà, định thần. Chợt Nết như nghẹn cứng họng, nổi quạu:

‘Thắt cổ gì, ra đâu mà có sẵn trong tù? Con nít nghe cũng biết có gì đó không ổn. Cái quân ác đức mà…’

Ngừng một chút nén giận, Nết thở dài vịn vai tía:

‘Mà thôi, số nó vậy thì phải chịu vậy. Xác thân đời! Mình nín thở qua sông cho yên chuyện. Lùm xùm chọc ổ kiến lửa chẳng ích gì…..  Mấy tháng rồi tía?’

‘Cũng đâu ba bốn tháng nay. Con đi độ chừng hơn một con trăng chứ mấy! Tía cố quên ngày tháng của nó. Người ra đi rồi thì thời gian còn có nghĩa lý gì đâu nữa mà để ý.’

Nết thắp mấy cây nhang cho em, trên bàn thờ chỏng chơ hai trái xoài bự kềnh, xanh lè (cái giống xoài Đài Loan oan nghiệt trồng trên cù lao có nhiều con gái đẹp nầy) rồi ngó qua tía, quẹt nước mắt:

‘Bịnh tim tía sao rồi, đở không?’

‘Thì cũng vậy vậy thôi, xình lên xẹp xuống như giả ngộ. Tháng rồi thầy giáo Hoạch ở bên Sóc Trăng có cấp cho giấy giới thiệu lên gặp phái đoàn y tế Mỹ trên tàu gì đó vừa mới cặp bến Sài-gòn làm chuyện nhơn đạo. Tía lên thì họ nói cần thêm giấy chứng nhận thuộc diện nhà nghèo vì bịnh nhơn lung quá làm không xuể.’

‘Rồi sao? Tía có lên Ủy Ban xin không?’

‘Chầu chực mấy ngày mới được mời vô giải thích là Cù Lao mình lên Thị Trấn mấy năm nay rồi, được Trên công nhận là huyện tiên tiến, đã thực hiện xong chuyện xóa đói giảm nghèo, làm sao ai dám cả gan thọc tay vô chứng nhận tía nghèo. Cũng có lý! Thôi, để bịnh theo tía xuống mồ luôn. Nói thì nói vậy, chớ mỗi ngày tía đều vái van y tổ Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Trọng Phủ phò hộ cho tía tự bốc thuốc được lành. Biết đâu!’

Nết thấy mình không còn hơi sức nói gì thêm được. Nghe chuyện nhà riết rồi muốn té xỉu. Chữ biết đâu của tía thể hiện lòng kỳ vọng vô bờ, một kỳ vọng ngay tía cũng cảm nhận như kẻ chìm đò mong mỏi một tấm ván nào đó trôi ngang. Nết lũi nhanh ra nhà sau rửa mặt, cố che dấu cặp mắt Nết biết rằng đương đỏ hoe và ngập ngụa lệ tràn.

Đoàn người lục đục xuống khu nhận hành lý. Phi trường bao la, người đông như kiến. Nết run run, mình tiếng Tây tiếng u không biết, mọi chuyện đều mới tinh lần đầu, biết làm gì đây! May mà họ đã chuẩn bị sẵn một nhân viên nói tiếng Việt nên mọi sự rồi cũng qua. Bực mình là cái điện thoại cứu khổ cứu nạn đợi hoài mà không thấy reng. Hòa cả hơn hai giờ sau mới có mặt, xuýt xoa chuyện kẹt xe với không có chỗ đậu gần. Sợ và bực mình tới nghẹn cổ nhưng cũng làm thinh bỏ qua! Về tới nhà thì đã có sẵn bốn năm ông tướng trời thần mặt nào mặt nấy đỏ gay như Quan Công, đương ngã nghiêng nói chuyện trên trời dưới đất, cụng ly liên tu và hình như chưa tay nào muốn vãn sòng. Nết sửa soạn bộ mặt tươi tỉnh nhứt chào ra mắt mọi người rồi lăn ngay vô bếp tự coi mình như có bổn phận phải phụ Hòa tiếp khách. Mệt muốn đứt hơi như là nếu không định thần thì ngã bẹp xuống đất nhưng phải chưng mặt ngoan hiền, đứng và đứng mặc dầu hành hẹ tiêu tỏi mắm muối để chỗ nào mỗi thứ đều phải hỏi…

Những câu bình phẩm sau lưng nghe loáng thoáng, gái một con trông mòn con mắt làm mình càng bực bội hơn. Bạn với bè! Đã dặn là không nên nói chuyện gia đình mình với người ngoài. Chẳng tốt lành gì, họ biết cũng chưa chắc đã thương mình hơn. Hứa rồi sao lại còn cho người khác biết. Những ánh mắt nhìn lén lút sau lưng, xuýt xoa lưng ong, khéo chìu chồng lại khéo nuôi con làm mình đỏ bừng mặt. Vâng, tôi đã có một con, nhưng đó không phải kết quả của tình yêu, đó là sự trao đổi thương vụ, trao đổi đã xong chính tôi muốn quên đi thời gian bi thảm làm công cụ đẻ mướn cho người. Tôi muốn lập lại cuộc đời, anh ấy tuy lớn tuổi nhưng là cái phao cho tôi, dầu không hoàn toàn ưng bụng cũng là phao không dễ mà có được. Nhưng sao thấy có gì lợn cợn ngay lúc bắt đầu. Cuộc tình mới nở coi bộ đã bị sọc dưa từ trong trứng nước.

Nết ngồi nhớ lại chuyện gần sáu tháng trước. Thở ra. Hòa chưa lúc nào nhắc đến chuyện làm hôn thú, anh chỉ chăm chút cho cái tiệm phở và những tính toán chi li, những than phiền về kẻ ăn người ở không biết làm việc khiến anh hao tốn vô ích. Tháng trước, nhơn khi Hòa thuyết giảng về đại họa Hán tộc của toàn cầu, Nết khuyên anh nên mua tương ớt tiêu gừng từ Hàn Quốc hay Nhật Bổn thay vì dùng hàng Trung Quốc tuy rẽ nhưng có thể hại cho sức khỏe người dùng, đã bị nự một trận nên thân nào là không nên đem chánh trị vô chuyện bán buôn, nào là thân cô còn lo chưa xong, sao lại lo cho thân khách hàng. Gần đây Hòa lại đổ quạu nạt nộ Nết rữa rau hai ba nước, quá mất thời giờ lại hao phí nước nôi, chén tộ rau cỏ không vì chút xíu sạch dơ mà mất khách hay thêm khách…. Giọt nước tràn ly khi Hòa ở chỗ làm thuế về hí hửng báo tin mình khôn lanh nên tiền thuế tính cho khách hàng mình chỉ nộp lại cho Sở Thuế chưa đầy một phần nhỏ. Không biết vì nguyên nhơn sâu xa nào khi nghe Hòa báo như vậy lòng Nết trở nên lạnh tanh. Ý tưởng phải xa người đàn ông nầy phừng lên tột cùng khi ông ta mướn người chạy mánh cho cả nhà lãnh food stamp vì thuộc diện nghèo, lợi tức thấp. Nết còn nhớ rõ khi Hòa vẽ ra viễn tượng lãnh thêm tiền thì tay anh quơ quơ trước mặt, rất hãnh diện, sợi dây chuyền vàng bự xộn mặt đong đưa thiếu điều kéo cổ anh ta xuống. Và Nết đã lén mua giấy máy bay bay về không một chút tình vướng víu, đắn đo…

Đó, tía coi, con làm sao ở với anh ấy suốt đời được.’ Nết nói trong nước mắt. ‘Khôn lanh đó, nhưng mình không nên dính dáng vô để thụ hưởng những khôn lanh kỳ cục như vậy. Anh ấy mánh mung nên tâm bất an, đêm nào ngủ cũng mớ vì ác mộng hay giựt mình thức dậy nửa đêm khiến con không sao yên giấc dầu là ban ngày quần quật hơn mười bốn tiếng. Thà về bên nầy chịu nghèo cho sạch như ông nội mớm dạy con lúc nhỏ, tâm sẽ bình an hơn.’

Ông thầy thuốc tay lật lật quyển sách thuốc cũ rách, mắt ngó ra ngoài sân, môi run run:

‘Nghèo cho sạch là hạnh tu hành của người cư sĩ đó con. Hạnh nghèo cho sạch còn khó hơn hạnh giàu bố thí. Và cũng an lạc chơn tâm hơn bố thí nhiều.’

Nết vói tới trước cầm lên vuốt vuốt cái điện thoại cả ngày nay bỏ lăn lóc trên bàn:

‘Con không hiểu biết nhiều như tía, nhưng con vẫn nhớ chuyện bốn hột cơm nặng nề mà nội giải thích là ơn nặng của người cho. Chuyện đó nội kể con nghe lâu lắm rồi.’

Người cha rót hai tách nước trà, đẩy một tách tới trước mặt con gái:

‘Chuyện như thế nào tía già lú lẫn rồi, con kể lại tía nghe.’

‘Lúc đó con đâu chừng bảy tám tuổi, ăn cơm thường bỏ mứa. Nội kể chuyện có chú tiểu nhỏ giặt áo tràng cho thầy mình, đè nhận hoài mà áo không chìm nên không thấm nước, không giặt được. Chú vào bạch thầy. Thầy dạy vô sau nhà trù lấy bốn hột cơm đưa thầy, thầy đem ra để lên bốn góc áo chỗ nổi lên mặt nước, tức khắc áo tràng chìm xuống nước. Ông nói cơm quá nặng vì chứa ơn trọng của người cho ta, trong chùa là ơn của tín thí đàn na, trong gia đình là ơn của cha mẹ, trong nước là ơn của toàn thể người đóng thuế góp phần…’

‘Và con lạnh nhạt với thẳng là do thẳng…’ Ông thầy thuốc không nói dứt câu. Hai tía con ngồi trầm ngâm, mỗi người xoay xoay tách nước của mình. Lâu thiệt lâu người tía mới nói:

‘Quấy đó, tệ đó, nhưng ở đâu cũng nhan nhản. Bên đây cũng lung mà bên kia cũng nhóc. Sống chung với cái quấy, cái tệ mà không nhiễm mới quan trọng. Tách nước trà rữa sạch rồi vẫn còn phưởng phất mùi trà vì bị nhiễm lâu ngày chầy tháng. Chén ngọc mới không nhiễm mà thôi, nhưng chén ngọc trong cõi trần ai nầy khó kiếm lắm. Con là con của tía mà đời là đời của con, tía để con quyết định nên về với thẳng hay ở lại trên quê hương mình. Suy nghĩ cho kỷ, đừng có chướng, làm bậy cho đã nư là không nên.’

Nết đưa tay ra nắm bàn tay xương xẩu của tía mình:

‘Đợi điện thoại của Hòa coi anh ấy nói sao rồi mới tính được tía à. Dầu sao cũng tình nghĩa. Sòng phẳng, không mượn anh ấy làm bè qua sông như thói thường thiên hạ, nhưng con cũng nghĩ là không nên dứt tình rốt ráo.’

Con dế trên bàn nằm yên ngủ, coi bộ chưa muốn kêu. Ngoài sân những bao thuốc Nam phơi nhiều nắng trỗ màu xám ngắt buồn tênh.


blank

Nguyễn Văn Sâm   
Victorville, CA. July 15-25 2011

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.