Hôm nay,  

NGUỒN GỐC HIỂM HỌA MẤT NƯỚC

18/12/201810:55:00(Xem: 4997)

Ngày nay, nói đến hiểm họa mất nước, ai cũng nghĩ là mất nước vào tay Trung Cộng.  Nguồn gốc hiểm họa mất nước có thể từ hai giai đoạn:


1.-  GIAI ĐOẠN HỒ CHÍ MINH CẦU VIỆN


Vào cuối thế chiến thứ hai, Nhật tổ chức đảo chánh và lật đổ Pháp ở Đông Dương ngày 9-3-1945, trao trả độc lập lại cho Việt Nam.  Vua Bảo Đại mời học giả Trần Trọng Kim lập chính phủ ngày 17-4-1945. Chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ hợp pháp, chính danh chuyển tiếp từ triều đình quân chủ với lục bộ, qua hình thức quân chủ lập hiến với nội các theo kiểu Tây phương, được nhà vua thừa nhận (de jure).  


Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ cầm quyền được 5 tháng, nhưng làm được nhiều việc hữu ích lâu dài, như giải quyết nạn đói ở Bắc phần, hội nhập hai nền hành chánh triều đình Việt Nam với nền hành chánh Pháp thuộc, đặt nền móng cho nền giáo dục và tư pháp mới của Việt Nam …


Khi Nhật đầu hàng Đồng minh ngày 14-8-1945, thì Hồ Chí Minh (HCM) và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) nổi lên cướp chính quyền, thành lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH).  (“Cướp chính quyền” là từ ngữ của HCM trong các bài viết lúc đó.) (de facto).


Khi ra mắt ngày 2-9-1945, HCM hô to các lời thề rất mạnh mẽ, trong đó lới thề cuối cùng là: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.)  


Tuy nhiên, khi Pháp trở lui tái chiếm Việt Nam, tổ quốc lâm nguy, thì HCM không chống Pháp, mà thỏa hiệp với Pháp bằng hai hiệp ước để được tiếp tục cầm quyền.  Đó là thỏa ước Sơ bộ tại Hà Nội ngày 6-3-1946 và Tạm ước Modus Vivendi tại Paris ngày 14-9-1946.


Sau đó, Pháp đòi kiểm soát an ninh Hà Nội.  Nếu Pháp nắm quyền kiểm soát an ninh Hà Nội, thì Pháp có thể bắt giam HCM và lãnh đạo CSVN. Đảng CS lâm nguy.  Không lẽ tự nhiên bỏ chạy, HCM và đảng CS quyết định đánh Pháp tối 19-12-1946 để có lý do hợp lý trốn thoát khỏi Hà Nội, và dùng chiêu bài “kháng chiến chống Pháp giành độc lập”, kêu gọi toàn dân đứng lên tham gia khởi nghĩa.


Đảng CSĐD yếu thế, thua chạy cho đến năm 1949.  Gần cuối năm nầy, đảng CS Trung Hoa thành công, lập ra Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa hay Trung Cộng ngày 1-10-1949.  (Ở đây dùng chữ “Trung Cộng” để phân biệt với Trung Hoa thời quân chủ và Trung Hoa Dân Quốc.)


Được tin nầy, HCM vội vã gởi liền hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh vào cuối tháng đó để xin viện trợ. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tt. 10-15.)


Được Trung Cộng đáp ứng thuận lợi, đích thân HCM qua Bắc Kinh cầu viện đầu năm 1950.  Lúc đó, Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai qua Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ xử lý thường vụ. Hồ Chí Minh làm kiểm điểm trước Lưu Thiếu Kỳ về những hoạt động của CSVN từ năm 1946.  (Trần Đĩnh: Đèn cù, California: Người Việt Books, 2014, tr. 49.)  .


Sau Bắc Kinh, HCM tiếp tục qua Mạc Tư  Khoa. Lúc đó, Mao Trạch Đông cũng có mặt ở Mạc Tư Khoa để thương thuyết và chúc thọ Stalin 70 tuổi.  Stalin ủy nhiệm cho Mao Trạch Đông phụ trách viện trợ cho đảng CSĐD. (Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, đăng trong Hồi ký những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, Dương Danh Dy dịch, tạp chí Truyền Thông Montreal in lại, số 32-33, 2003, tr. 45.)  Đồng thời Stalin ra lệnh cho HCM đổi tên đảng CSĐD thành đảng Lao Động. (Nguyễn Văn Trấn, Việt cho Mẹ và Quốc hội, California: Nxb. Văn Nghệ, 1995, tr. 149.)


Từ khi Pháp xâm lăng Việt Nam năm 1858, nhiều anh hùng hào kiệt đã vận dụng sức dân nổi lên chống Pháp.  Dầu chưa thành công, nhưng những cuộc khởi nghĩa chống Pháp hoàn toàn không nhờ đến kẻ đã nhiều lần xâm lăng Việt Nam là Trung Hoa để chống Pháp.  Hơn nữa, người Trung Hoa đến Việt Nam có thể ở lại Việt Nam, trong khi người Pháp chỉ đến khai thác, bóc lột rồi ra đi.


Lúc HCM hoạt động ở Trung Hoa, lãnh tụ Trung Cộng là Mao Trạch Đông đã viết vằo năm 1939 rằng Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung Cộng. (Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, không đề tên tác giả, 1979, tr. 16.)  Chắc chắn HCM đã học tập tài liệu nầy, nhưng vẫn làm kiểm điểm để xin Trung Cộng viện trợ.  Việc HCM cầu viện Trung Cộng để chống Pháp di hại mãi cho đến ngày nay.


Nhờ viện trợ của Trung Cộng và của Liên Xô, đảng Lao Động thành công năm 1954.  Hiệp định Genève ngày 20-7 chia hai đất nước ở vĩ tuyến 17.  Bắc Việt Nam (BVN) là VNDCCH do đảng Lao Động cai trị.  Nam Việt Nam (NVN) là Quốc Gia Việt Nam, đổi thành Việt Nam Cộng Hòa ngày 26-10-1955.  


Sau khi cầm quyền ở BVN, HCM và đảng Lao Động tiếp tục cầu viện Trung Cộng và Liên Xô, mở cuộc tấn công NVN.  Vừa để trả nợ trong chiến tranh 1946-1954, vừa để vay nợ mới nhằm động binh lần nữa, Phạm Văn Đồng, theo lệnh của HCM và Bộ chính trị đảng Lao Động, ký công hàm ngày 14-9-1958, công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Cộng.  


Như thế, HCM đã hai lần cầu viện Trung Cộng.  Lần đầu vào năm 1950 trong chiến tranh 1946-1954, và lần hai sau năm 1954 trong chiến tranh 1954-1975.  


2.-  GIAI ĐOẠN SAU NĂM 1975


Nhờ sự viện trợ lớn lao của khối CS, đảng LĐ chiếm được miền Nam Việt Nam năm 1975. Trong việc cai trị sau năm 1975, về đối nội, đảng Lao Động đổi tên thành đảng CS Việt Nam (CSVN) năm 1976, độc tài toàn trị, theo chính sách kinh tế chỉ huy, làm cho dân tình đói khổ.   Người ta cho rằng đây là chính sách “tự thực dân”, hay thực dân nội địa, nghĩa là thực dân ngay trên quê hương mình, với dân tộc mình. (autocolonisation).  Xin chú ý là Phát xít Ý, Quốc xã Đức hay Quân phiệt Nhật chỉ bóc lột và độc ác với người nước ngoài, chứ không độc ác với người đồng chủng trong nước họ.


Về đối ngoại, CSVN quay lưng với Trung Cộng, và năm 1978 gia nhập tổ chức Council for Mutual Economic Assistance (COMECON) tức Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Liên Xô đứng dầu, đồng thời xâm lăng Cambodia vào cuối năm 1978.  Lúc đó, Khmer đỏ ở Cambodia do Trung Cộng bảo trợ và Trung Cộng muốn sử dụng đường Cambodia xuống Đông Nam Á.


Vì CSVN phủi ơn Trung Cộng, xâm lăng Cambodia, Trung Cộng tức giận, tấn công Việt Nam đầu năm 1979 mà Đâng Tiểu Bình gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học”.  Chiến tranh biên giới tuy ngắn ngày, trong vòng một tháng, nhưng 6 tỉnh biên giới phía bắc bị hoàn toàn tàn phá.


Cuối thập niên 80, CSVN gặp ba khó khăn cùng một lúc: 1) Thứ nhứt, trong nước kinh tế suy thoái. 2) Thứ hai, ngoài nước, bộ đội CSVN sa lầy ở Cambodia. 3) Thứ ba, trên chính trường quốc tế, các chế độ CS Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CSVN mất nguồn viện trợ và điểm tựa quốc tế.  Nền kinh tế CSVN đang yếu kém, suy sụp, cần viện trợ để đứng vững, nên CSVN không còn con đường nào khác, quay qua cầu thân trở lại với Trung Cộng.


Đảng Lao Động bí mật liên lạc với Trung Cộng.  Dấu hiệu đầu tiên là Trung Cộng đánh chiếm Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa một cách dễ dàng tháng 3-1988.  Người ta biết được CSVN bí mật nhượng bộ Trung Cộng ở Gạc Ma, vì một số bộ đội CS còn sống sót sau trận Gạc Ma kể lại rằng họ được bộ Quốc phòng CSVN ra lệnh không được nổ súng chống cự quân đội Trung Cộng.  Người ra lệnh nầy là bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh. (Chuyện nầy được viết rõ trong sách Gạc-Ma, vòng quay bất tử mới xuất bản ở trong nước liền bị tịch thu.)  


Chắc chắn phải có quyết định của Bộ chính trị đảng CS, Lê Đức Anh mới dám ra lệnh không nổ súng.  Điều nầy chứng tỏ CSVN đã bí mật liên lạc (còn gọi là đi đêm) và nhượng bộ Trung Cộng để cầu thân.


Dấu hiệu cầu thân tiếp theo là tháng 1-1989, thứ trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm bí mật đến Bắc Kinh.  Bề ngoài thì phái bộ Đinh Nho Liêm lo việc thảo luận về vấn đề Cambodia, nhưng bên trong thì Liêm bí mật ngỏ ý Việt Nam muốn bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng.  


Hai bên mới đánh nhau, tiếp tục tranh chấp, đối đầu nhau, viết sách báo đả kích nhau, nay CSVN gởi phái bộ đến đất nước của đối thủ, tự động đề nghị xin bình thường hóa, có nghĩa là CSVN xin chịu xuống nước, chịu nhượng bộ.  


Theo yêu cầu bình thường hóa của CSVN, Trung Cộng triệu tập hội nghị Thành Đô trong hai ngày 3 và 4-9-1990.  Phía Trung Cộng có Giang Trạch Dân, Lý Bằng.  Phía CSVN có Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng.  Xin chú ý các điểm sau:


  • Đây không phải là cuộc họp giữa hai chính phủ, vì nếu là cuộc họp giữa hai chính phủ, thì kết quả phải được đưa ra trước Quốc hội hai nước phê chuẩn.

  • Đây là cuộc họp thượng đỉnh trong hai ngày, giữa đại diện hai đảng CS mà thôi.  

  • Hội nghị bàn những gì, kết quả như thế nào, hoàn toàn không có thông báo công khai.

  • Vì nội dung hội nghị Thành Đô được giữ bí mật tuyệt đối, nên tất cả những bài viết về kết quả hội nghị Thành Đô trên báo chí, trên Wikileaks, kể cả nguồn tin Việt Nam sẽ thành khu tự trị của Trung Cộng năm 2020, đều là những lời phỏng đoán.

  • Với thế mạnh, Trung Cộng yêu sách.  Lòng tham con người không đáy. Nếu hội nghị không ấn định giới hạn yêu sách cụ thể bằng văn bản, thì những đòi hỏi của Trung Cộng sẽ không cùng, đòi hỏi dần dần liên mien bất tận.

  • Trong thế yếu, CSVN đành phải nhượng bộ, nhượng bộ hoài, chấp nhận tất cả những đòi hỏi của Trung Cộng, nhưng CSVN có gì để nhượng bộ?

  • Chỉ khổ một điều. CSVN nhượng bộ nhưng dân tộc Việt Nam phải gánh chịu những nhượng bộ đó, dần dần tài sản của tổ tiên để lại lọt vào tay Trung Cộng.


Khác với những cuộc xâm lăng trước đây, lần nầy Trung Cộng không sử dụng võ lực, mà áp lực chính trị và kinh tế càng ngày càng mạnh, đưa Việt Nam dần dần đi vào quỹ đạo của Trung Cộng.  Sách lược nầy rất thâm độc, khống chế và khuynh loát CSVN vừa chính trị vừa kinh tế, nhằm phục vụ mưu đồ Hán hóa của Trung Cộng. Đây là sách lược xâm lăng không tiếng súng, được gọi là “xâm lăng hòa bình” (pacific invasion) hay còn gọi là “xâm lăng thầm lặng” (silent invasion).


Như thế, trước năm 1975 là HCM và sau năm 1975 là đảng CSVN cầu viện Trung Cộng, chính là nguồn gốc đưa đến hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng ngày nay. Trung Cộng cho vay thật dồi dào, đến lúc nước vay không trả nổi, nên đành phải chịu cấn nợ, bằng những hiệp định nhượng đất, nhượng biển, hay nhượng những khu vực, thị trấn cho Trung Cộng lập đặc khu kinh tế.  Đây là cái bẫy nợ. Chết vào tay Trung Cộng.


TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 08-12-2018)




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.