Hôm nay,  

Trung Quốc Thu Tóm Biển Đông

21/12/201810:26:00(Xem: 4637)

Trung Quốc Thu Tóm Biển Đông
 

Brahma Chellaney

Đỗ Kim Thêm dịch

  

Lời người dịch: Trung Quốc đã biến Biển Đông thành ao nhà khi họ tuyên bố 1.3 triệu dặm vuông ở Biển Đông là thuộc chủ quyền Trung Quốc, một yêu sách ngụy tạo. Trung Quốc đã cắm cờ, cải tạo đất, xây tiền đồn ở các đảo, các bãi cạn và sẽ còn tiếp tục bành trướng khu vực, nơi không còn là  “Á Châu-Thái Bình Dương”, mà nay trở thành “Ấn Độ-Thái Bình Dương”, một chiến lược mới song hành với Sáng kiến Vành đai và Con đường. Sự ổn định của khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, kể cả bờ biển phía Tây Châu Phi và Nam Phi sẽ do Trung Quốc khống chế. Kết qủa này là do một đối sách mềm yếu của Mỹ dưới thời Obama, thiếu tinh thần đoàn kết của khối ASEAN và nô lệ tự nguyện của Việt Nam, đặc biệt nhất là Philipinnes đã không tận dụng ưu thế pháp lý của phe thắng cuộc trong tranh chấp.

Hoa kỳ không có tranh chấp lãnh thổ trong khu vực Biển Đông, nhưng phải đối phó vấn đề quyền tự do hải hành cho việc thương mại toàn cầu, một lợi ích quan trọng về chiến lược. Trong bồi cảnh của cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc còn đang tiếp diễn, nên giải pháp Biển Đông của chính quyền Donald Trump được giải quyết hoàn toàn độc lập hay có ảnh hưởng hổ tương, đó chỉ là một giả thiết.

Thực tế cho thấy là trong năm qua, Hoa Kỳ đã có đối đầu trực tiếp với Trung Quốc ở Biển Đông. Hoa Kỳ đã có 9 đợt tuần tra tự do hàng hải để thách thức các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Tháng 9 vừa qua, tàu chiến của hai phe suýt va chạm nhau.

Rồi sẽ ra sao trong năm 2019? Một cuộc hải chiến của Hoa Kỳ với Trung Quốc có thể bùng nổ trên Biển Đông không? Mọi suy đoán đều thiếu cơ sở khi có quá nhiều yếu tố liên quan đầy bất trắc chung quanh: tranh chấp mới qua vụ Hoa Vi, triệt thoái khòi Syrie và Afgahnistan, với tình khí bất thường cùa Donald Trump và chính sách bất toàn của Mỹ, khó ai lường đoán hồi kết cuộc.

Một giải pháp êm đẹp nhất là khi chiến tranh thương mại tạm ổn định và thiện chí hiếu hoà của hai bên có thể xác định, tình huống đe dọa trực tiếp về an ninh và tự do hảng hải quốc tế ít được quan tâm và cũng không buộc Mỹ phải phản ứng mạnh bằng quân sự. Do đó, hai phe có thể ngăn chặn xung đột bùng nổ trên Biển Đông. Ngược lại, chuyện không muốn sẽ đến.

Còn Việt Nam? Học viện Ngoại giao đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Biển Đông trong cục diện mới và đối sách của Việt Nam”. Nhưng một giải pháp thu hồi các biển đảo bị Trung Quốc chiếm là ảo ành. Lãnh đạo Việt Nam cho rằng thế hệ mai sau sẽ giải quyết chuyện đã rồi của lịch sử do họ gây ra, một quyết định của Đảng mà Học viện phải tuân thủ.

 

***

Trong năm năm qua, Trung Quốc đã biến các yêu sách vể Biển Đông do giả tạo lịch sử của mình thành hiện thực và đạt được thành qủa về mặt chiến lược vượt xa hơn bờ biển. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã không để cho kết quả đó thành chuyện tình cờ.

Đã năm năm qua kể từ khi Trung Quốc khởi xướng cải tạo vùng đất chính ở Biển Đông và đã thay đổi hiện trạng lãnh thổ có lợi cho mình - mà không gặp phải bất kỳ phản ứng chống trả nào của quốc tế. Lễ kỷ niệm khởi công xây dựng hòn đảo nhấn mạnh về một nền địa chính trị bị biến đổi trong một hành lang chủ yếu của một trật tự quốc tế về hàng hải.

Vào tháng 12 năm 2013, chính phủ Trung Quốc đã đưa tàu nạo vét Thiên Kinh khổng lồ vào phục vụ tại rạn san hô Đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa, cách xa lục địa Trung Quốc. Trường Sa nằm ở phía nam quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1974, tận dụng khi lực lượng của Mỹ rời khỏi Nam Việt Nam. Năm 1988, rạn san hô là cảnh quan của một cuộc tấn công của Trung Quốc đã giết chết 72 thủy thủ người Việt Nam và đánh chìm hai tàu của họ.

Công việc của tàu nạo vét là phân mảnh các trầm tích dưới đáy biển và đưa nó vào trên một rạn san hô cho đến khi thành hình một hòn đảo nhân tạo thấp trũng. Với hệ thống hoạt động theo động lực riêng và khả năng khai thác trầm tích với tốc độ 4.530 khối mét vuông (5.924 cubic yards) mỗi giờ, Thiên Kinh tự hào đã thực hiện công việc rất nhanh, tạo ra 11 ha đất mới, bao gồm cả một bến cảng, trong thời gian chưa đầy bốn tháng. Trong khi đó, Trung Quốc có một chiến hạm tuần tra.

Kể từ đó, Trung Quốc đã xây dựng thêm sáu hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông và liên tục mở rộng cơ sở quân sự tại khu vực có tầm vóc chiến lược quan trọng này, đường hàng hải cho một phần ba thương mại toàn cầu đi qua. Trung Quốc xây dựng các cơ sở cảng, tòa nhà quân sự, lắp đặt đài kiểm soát radar, các nơi trú ẩn cho hoả tiển, kho tiếp vận rộng lớn cho nhiên liệu, nước và đạn dược, và thậm chí cả phi đạo và nhà chứa máy bay trên các đảo nhân tạo. Để củng cố vị thế hơn nữa, Trung Quốc đã vũ trang mạnh mẽ các nơi lân cận đình chỉ khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế của họ.

Do đó, Trung Quốc đã biến các yêu sách về Biển Đông do giả tạo lịch sử  thành hiện thực và đạt được ý nghĩa sâu xa về mặt chiến lược, bất chấp phán quyết năm 2016 của tòa trọng tài quốc tế vô hiệu hóa các yêu sách đó. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như có ý định chứng minh câu ngạn ngữ cổ rằng “sở hữu là chín phần mười của luật pháp“. Và dường như thế giới đang để yên cho họ chiếm.

Người Trung Quốc đã không để cho kết quả đó thành chuyện tình cờ. Trước khi bắt đầu xây dựng các hòn đảo của mình ở Biển Đông, họ đã dành vài tháng để thử nghiệm xem có thể có các phản ứng của Hoa Kỳ thông qua các động thái tượng trưng không. Đầu tiên, vào tháng 6 năm 2012, Trung Quốc đã chiếm giữ Bãi cạn Scarborough còn đang tranh chấp với Philippines, mà quốc tế không có một phản ứng hữu hình nào.

Gần như ngay lập tức, Tập đoàn Công nghiệp Đóng tàu Nhà nước Trung Quốc - hiện đang chế tạo hàng không mẩu hạm thứ ba của Trung Quốc - đã xuất bản trên trang mạng bản phác thảo cho các đảo nhân tạo trên đỉnh các rạn san hô, bao gồm các bản vẽ các cấu trúc của các công trình  xác định chương trình xây dựng Trường Sa của Trung Quốc. Nhưng các bản phác thảo đã nhận được rất ít thông báo ghi nhận của quốc tế, và đã sớm bị xóa khỏi trang mạng, mặc dù sau đó các bản này đã lưu hành trên một số trang mạng tin tức của Trung Quốc.

Vào tháng 9 năm 2013, Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm tiếp theo: họ đã gửi tàu nạo vét Thiên Kinh đến rạn san hô Châu Viên, nơi họ ở lưu lại trong ba tuần mà không bắt đầu cải tạo đất. Các hình ảnh vệ tinh khả dụng trên thị trường sau đó cho thấy là một tàu nạo vét tại Đá Chữ Thập, một rạn san hô khác, làm việc lần nữa, nhưng rất ít. Một lần nữa, Hoa Kỳ, dưới thời Tổng thống Barack Obama, đã không đẩy lùi, thúc đẩy cho Trung Quốc bắt đầu dự án xây dựng đảo đầu tiên của mình tại Đá Gạc Ma.

Nói tóm lại, khi Trung Quốc tiếp tục xây dựng và quân sự hóa các đảo, họ đã thực hiện một cách hoàn chỉnh, dần dần tăng cường các hoạt động trong khi theo dõi phản ứng của Mỹ. Hai năm cuối cùng của tổng thống Obama được đánh dấu bằng việc Trung Quốc xây dựng cuồng nhiệt.

Tất cả những điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt đại dương trong khu vực. Trung Quốc đã phá hủy các rạn san hô để sử dụng làm nền cho các đảo cung cấp thức ăn và nơi trú ẩn cho nhiều loài sinh vật của đại dương, cũng như cung cấp ấu trùng cho các loài thủy sản quan trọng của Châu Á. Thêm vào đó là dòng chảy tẩm hóa chất từ các đảo nhân tạo mới và các hoạt động của Trung Quốc đang tàn phá các hệ sinh thái Biển Đông.

Ash Carter, Bộ trưởng Quốc phòng cuối cùng của Obama, đã chỉ trích nhà lãnh đạo của mình về phương sách mềm yếu đối với Trung Quốc. Trong một bài tiểu luận phát hành gần đây, Carter đã viết rằng Obama đã lầm lạc bằng cách phân tích của chính mình, đã nghi ngờ khi cứu xét “những khuyến nghị của tôi và những người khác về thách thức gây hấn hơn trước các yêu sách hàng hải quá mức của Trung Quốc và các hành vi phản tác dụng khác.“ Carters nói, trong khi đó Obama mang viễn kiến của Trung Quốc trong sự sắp xếp với Mỹ theo khuôn khổ của G2.

Hiện nay, chính quyền của Tổng thống Donald Trump, đang đối phó với các hậu quả của sách lược Obama. Trump muốn thực hiện một viễn kiến về một chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở. Nó là sự kế thừa cho chính sách chuyển trục về châu Á của Obama.

Nhưng, từ những địa thế mới được xây dựng ở Biển Đông, Trung Quốc có vị trí tốt hơn không chỉ để duy trì các cuộc tuần tra trên không và trên biển trong khu vực, mà còn thúc đẩy chiến lược dự phóng về điện qua Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương. Làm thế nào có thể có bất kỳ hy vọng nào về một Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở, khi hành lang quan trọng nối liền các đại dương Ấn Độ và Thái Bình Dương đang ngày càng bị chế ngự  bởi chế độ chuyên chế lớn nhất thế giới?

Lấn chiếm lãnh thổ của Trung Quốc, một chiến thắng của cường quốc thô bạo xem thường luật pháp, phơi bày tính cách tổn thương của một trật tự thế giới tự do hiện tại. Các gánh nặng về môi trường và địa chính trị có thể sẽ tăng lên, gây ra chi phí lớn lao cho các quốc gia khu vực và định hình lại các mới quan hệ hàng hải quốc tế.

***

Brahma Chellaney, Giáo sư Nghiên cứu Chiến lược, Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Nghiên cứu Chính sách, New Delhi, Học viện Robert Bosch, Berlin, tác giả của chín cuốn sách, kể cả Asian Juggernaut, Water: Asia’s New Battleground, and Water, Peace, and War: Confronting the Global Water Crisis.

Nguyên tác: China’s South China Sea Grab

https://www.project-syndicate.org/commentary/uncontested-south-china-sea-grab-by-brahma-chellaney-2018-12

 

***

Sách Đỗ Kim Thêm đã xuất bản tại Amazon:

Global Governance of Competition Law and Policy: Key Issues

Hòa Bình Theo Quan Điểm Của Immanuel Kant Và Phật Giáo

Quan Điểm Của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại

Nhà Nước Pháp Quyền: Kinh Nghiệm Quốc Tế về Lý Thuyết và Thực Tế

Giới Thiệu Các Danh Tác Cổ Điển Và Hiện Đại Của Phương Tây

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.