Hôm nay,  

Duềnh quyên

27/12/201815:29:00(Xem: 4549)

Duềnh quyên

 

Trịnh Y Thư

 

*

 

Duềnh quyên? What the heck do you mean by “duềnh quyên?”

 

Có anh bạn sau khi đọc Chùm lục bát Lập Đông của tôi, nêu thắc mắc “duềnh quyên” là “cái quái gì vậy?” Bạn nói tiếp, “Tôi chưa bao giờ nghe hay đọc cái chữ mà khi đọc muốn trẹo quai hàm đó, cậu có bịa chữ thì cũng bịa vừa vừa thôi chứ, làm quá cậu ‘ngộ chữ’ thì khốn, bởi vì từ ‘ngộ chữ’ đến tâm thần chỉ là khoảng cách cận kề… Cậu biết chửa?”

 

Anh bạn tôi còn nói nhiều nữa, nhưng tôi từ tốn ngắt lời anh bảo anh đừng nóng nẩy, có mắng mỏ lên án thì chí ít cho tôi biện bạch vài lời đã, và tôi nhỏ nhẹ bảo anh:

 

Bạn ạ, “duềnh” theo từ điển Việt Nam của cụ Lê Ngọc Trụ nguyên nghĩa là vụng nước. “Duềnh quyên” là vụng nước có mặt trăng soi vào lấp lánh. Cụ Nguyễn Du thích nhóm từ này lắm vì nó giàu hình ảnh. Tả cảnh Kiều ngồi buồn bã trước lầu Ngưng Bích, cụ viết:

 

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

 

Và cụ Trần Trọng Kim chú giải “duềnh” là vụng bể, vực sâu, bởi lầu Ngưng Bích trông ra cửa bể.

 

Từ “duềnh” còn được dùng để tả khúc sông Tiền Đường nơi Kiều, trong tuyệt vọng, gieo mình  tìm cái chết sau khi Từ Hải nghe lời Kiều về hàng triều đình để rồi mắc lừa Hồ Tôn Hiến mà uất khí chết đứng giữa trận tiền.

 

Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,

Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.

 

Đoạn này trong truyện thì cụ Trần Trọng Kim chú giải “duềnh ngân” là vũng nước.

 

Từ “duềnh” còn được Nguyễn Du sử dụng một lần nữa, lúc Kiều tái hồi Kim Trọng. Như chúng ta đã biết, lúc gặp lại gia đình sau 15 năm lưu lạc, Kiều không muốn theo người thân về nhà vì nghĩ tấm thân mình hoen ố quá đỗi rồi, về nhà chỉ làm ô danh dòng tộc mà thôi. Nhưng bị mọi người nài nỉ, Kiều khứng chịu về. Trong bữa tiệc đoàn viên trước mặt mọi người, Thúy Vân đứng lên xin “tác hợp cơ trời” cho Kiều làm vợ Kim Trọng, “đem duyên chị buộc vào duyên em.” (Kim Trọng nghe vợ mình nói thế, chắc mở cờ trong bụng, sướng run. Mười lăm năm người yêu lưu lạc, đọa đày, mình lấy em gái người yêu làm vợ, ra làm quan hưởng bao ân huệ cuộc đời, hạnh phúc ấm êm, bây giờ người yêu trở về, mình được phép lấy luôn làm vợ! Trời! Chàng Kim này sao mà tốt số!)

 

Thế nhưng Kiều nào chịu vậy. Nàng cảm kích nghĩa tình của Kim, “Chàng dù nghĩ đến tình xa,” nhưng thôi chàng ơi, mình nên “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” đi chàng. Kiều miễn cưỡng làm lễ thành hôn với Kim, nhưng nàng hổng chịu cho Kim make love. Lúc hai người ngồi riêng trong phòng hoa chúc, nàng chỉ cầm đàn gảy cho chàng nghe.

 

Khúc đâu đầm ấm dương hòa,     

Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?

Khúc đâu êm ái xuân tình,

Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên.

Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.

 

Tiếng đàn của Kiều lần này là tiếng đàn của hạnh phúc, lai láng tình xuân. Thật vậy, theo nhà nghiên cứu văn học Trần Đình Sử, nếu dựa vào tinh thần mấy câu thơ trên thì Kiều chưa hết đường tình ái đâu. Mặc dù ngoài mặt nàng từ chối việc gối chăn với Kim Trọng nhưng trong lòng nàng vẫn còn deeply in love với chàng, và thịt da nàng vẫn còn rạo rực, trái tim vẫn còn loạn nhịp, bởi không cháy bỏng tâm can thì tiếng đàn không thể “nghe suốt năm cung” và cũng không thể “não nùng xôn xao” được.

 

Sáu câu thơ ấy, Nguyễn Du dịch ý từ bốn câu Cầm Sắt của nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường:

 

Trang sinh hiểu rộng mê hồ điệp

Thục đế xuân tâm hóa đỗ quyên

Thượng hải nguyệt minh châu hữu lệ

Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.

 

Vẫn theo ông Trần thì sáu câu thơ Nguyễn Du diễn tả tiếng đàn vào lúc này của Kiều có cái lạ. Nó thấm đẫm tình dục! Trang Chu mộng thấy mình hóa bướm, cả hai hòa nhập vào nhau không tách ra được; Thục Đế hóa thành chim đỗ quyên, không biết là thân chim quyên hay thân Thục Đế, hai thân cũng xoắn xuýt không rời. Tất cả là ẩn dụ nói về hai thân xác nam nữ nhập vào nhau. Đắm đuối. Đắm đuối thì tiếng đàn mới “đầm ấm dương hòa” và “êm ái xuân tình” chứ.

 

Nguyễn Du kết khúc phân cảnh này bằng hai câu tuyệt tác có cụm từ “duềnh quyên,” mà tôi xin mượn cách bình giải của ông Trần như sau:

 

“Châu nhỏ duềnh quyên” là giọt ngọc nhỏ xuống duềnh nước có bóng trăng soi, một hình ảnh gợi tình nam nữ. Còn nắng ấm (dương) làm cho hạt ngọc Lam Điền đông cứng lại, cũng là một cảnh hòa hợp, sinh thành. Một người một bướm, một người một chim, một giọt ngọc một vụng nước, một ánh dương soi một sự sinh thành, bốn hình ảnh đều khêu gợi mối dục tình nam nữ một cách kín đáo, hàm ẩn. Nó dự báo mối tình Kim-Kiều rồi sẽ còn có hậu. Khúc đàn tái hợp của Kiều đã nói lên lòng nàng, vẫn một tấm lòng yêu đời thiết tha, trong sáng.

 

Anh bạn tôi ơi, đến đây thì chắc bạn đã tạm bằng lòng với câu trả lời của tôi về nguồn gốc cụm từ “duềnh quyên” mà tôi dùng trong bài thơ Nghìn thu từ độ. Tiện đây, tôi cũng xin nói luôn với bạn là, đối với tôi, “duềnh” là cái gì rất thực, rất thân quen, không phải hình tượng văn chương thơ phú.

 

Họa sĩ thường bị ám ảnh bởi một màu sắc hay đường nét nào đó suốt khoảng thời gian dài trong cuộc đời sáng tạo của mình, và họa sĩ có xu hướng phả hình tượng cùng màu sắc đó lên mặt canvas. Picasso thời kì xanh, thời kì hồng, chẳng hạn. Những kẻ làm thơ như tôi thì bị ám ảnh bởi những từ mà tôi không sao giải thích được. Tuy thế, có một từ lúc nào cũng lởn vởn trong tâm trí tôi từ nhiều năm và tôi có thể giải thích được tại sao, đó là từ “duềnh.”

 

Đằng sau nhà tôi hiện nay ở miền Nam California là một con lạch nhỏ. Mở ứng dụng Google Map, bạn sẽ thấy nó là một lằn chỉ màu xanh dương ngoằn ngoèo tên San Diego Creek, chạy theo trục đông bắc – tây nam từ phía đông thành phố Irvine qua Newport Beach rồi đổ vào Upper Newport Bay State Marine Conservation Area, một vùng sinh thái hiếm hoi của miền đất này bởi đất đai ở đây đắt hơn vàng, đất để xây nhà cao tầng và biệt thự, mỗi căn từ hai ba triệu đô la trở lên, chứ chẳng ai quan tâm đến những vấn đề vớ vẩn như bầy chim di chớm đông bay từ Canada xuống không có ao nước ngọt, hay mấy con ba ba từ biển xa về không tìm ra bãi cát đẻ trứng, vân vân. Con lạch bé lắm, thật ra chỉ dùng vào việc thoát nước của khu vực, lại ngắn ngủn như tôi vừa miêu tả, nhưng khúc chảy sau nhà tôi lại có một cái duềnh. Mùa khô cạn nước, cỏ hoang và cây dại mọc lên um tùm, nhưng sau một trận mưa thì nước dềnh lên thành một cái ao nhỏ. Và kì diệu thay mầm sống! Ngay lập tức vài con cò bay đến thơ thẩn kiếm tôm cá ăn. Dọc theo con lạch là lối đi bộ và chạy xe đạp. Gần như mỗi ngày, cơm nước xong, tôi đều ra đi bộ đến khúc có cái duềnh, đứng trên cầu tìm con cò trắng, cổ dài ngoằng. Có hôm nó đến kiếm ăn, có hôm không. Nhưng có hôm nó rủ thêm vài cò bạn, cả bầy nhẩn nha đánh chén suốt buổi. Gần đó vài chú vịt trời bơi lội loăng quăng ra chiều thư thái lắm. Nhìn bầy chim dưới duềnh, lòng tôi cũng thư thái không kém, một cảm giác thật hiếm hoi, quý giá, trong cuộc sống tất bật hôm nay.

 

Những hôm có trăng, trời quang mây tạnh, đợi lúc trăng lên cao gần đỉnh trời, mất ngủ, tôi lại khoác áo bước vài bước ra xem cái “duềnh quyên.” Mấy mươi năm rồi, tôi ở căn nhà này, bao nhiêu lần nhìn nó, riết rồi tôi xem nó là cái gì riêng tư, của tôi, và cũng chẳng có ai tranh giành nó với tôi.

 

Chưa hết. Tôi còn một cái duềnh thứ hai.

 

Cũng con lạch San Diego Creek đó, qua đến địa phận Newport Beach, nó doãng ra thành một hồ nước rộng trước khi đổ ra vụng nước sinh thái và cuối cùng là biển Thái Bình. Một chút hoang sơ giữa lòng đô thị, duềnh nước lai láng dù là mùa khô hạn, giữa duềnh nổi lên vài cồn cát, trên mọc hoang vài cây con và cỏ dại. Dọc theo bờ vẫn con đường đi bộ và chạy xe đạp, hai bên đủ loại cây cối và bụi rậm chen nhau rợp bóng. Vào một đêm trăng sáng, bạn hãy đưa người yêu đến đây thay vì chui vào mấy cái vũ trường hay hộp đêm sặc sụa mùi rượu bia và son phấn rẻ tiền, tôi bảo đảm người yêu bạn sẽ ôm hôn bạn đắm đuối.

 

Điều may mắn cho tôi là suốt mấy mươi năm qua, cơ quan tôi làm việc chỉ quanh quẩn xung quanh cái duềnh nước đó, dù tôi thay đổi khá nhiều công ti. Ít nhất mỗi tuần một lần, sau những giờ phút căng thẳng với công việc, tôi hay lái xe lên đây, giở cà men ra ăn trưa rồi ra ngoài đi bộ chừng nửa tiếng đồng hồ. Cái duềnh lớn này theo năm tháng cũng ăn sâu vào tâm trí tôi như một cái gì rất riêng tư bên cạnh cái duềnh nhỏ sau nhà.

 

Tôi bị ám ảnh bởi nhóm từ “duềnh quyên” trong thơ tôi là phải thôi, nhất là từ khi tôi đọc được bài thơ haiku này của Thiền sư Choshu người Nhật Bản:

 

The moon in the water,
Broken & broken again,
Still it is there.

 

Không biết tiếng Nhật, tôi chỉ đọc bản tiếng Anh, và mạo muội dịch ra tiếng Việt như sau (rất mong có bạn nào biết tiếng Nhật giúp tôi hoàn chỉnh bản dịch):

 

Duềnh quyên,

Tan vỡ, rồi tan vỡ,

Trăng vẫn còn nguyên.

 

Hãy nghe Thiền sư Osho của thế kỉ XX bình chú bài haiku này:

 

Bởi mỗi khi gió thổi đến, mặt hồ gợn sóng, mặt trăng (trên mặt hồ) vỡ tan thành nghìn mảnh. Nhưng rồi hồ lại lặng yên và tất cả những mảnh vỡ đó tụ lại thành mặt trăng. Bởi nó chỉ là cái bóng phản chiếu mặt trăng nên cái bóng tan vỡ chứ không phải mặt trăng. Cho dù cái bóng tan vỡ thành nghìn mảnh vụn, mặt trăng vẫn còn nguyên ở đó. Tất cả thân, tâm, đời sống chúng ta là cái bóng phản chiếu trên mặt duềnh, vỡ tan thành nghìn mảnh. Tuy vậy, nằm sâu trong hiện thể của ta, mặt trăng vẫn như cũ, muôn đời đầy đặn và tuyệt hảo.

 

Tất cả thân, tâm, đời sống chúng ta là cái bóng phản chiếu trên mặt duềnh, vỡ tan thành nghìn mảnh, bởi chúng ta hiện sống trong thế giới ảo, không có gì thật. Ngay cả những câu chữ tôi đang viết cho bạn đây cũng không thật. Cái ảo có sức quyến rũ lạ kì, như có ma lực, đẹp mê hồn, làm mê muội lòng người, nó cuốn hút tôi, bạn, tất cả chúng ta, vào đó, tan vỡ như bóng trăng trên mặt duềnh. Con người sinh ra, để lại những giấc mơ ảo, rồi biến mất. Hai câu thơ “Duềnh quyên bóng động hai hàng, Nghìn thu từ độ vẫn bàng hoàng trôi” là lời tự thán biết vậy mà chẳng làm gì khác được.

 

                                                                   Duềnh nhỏ sau nhà

 

                                                    Duềnh lớn, Newport Beach, CA



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.