Hôm nay,  

Duềnh quyên

27/12/201815:29:00(Xem: 4509)

Duềnh quyên

 

Trịnh Y Thư

 

*

 

Duềnh quyên? What the heck do you mean by “duềnh quyên?”

 

Có anh bạn sau khi đọc Chùm lục bát Lập Đông của tôi, nêu thắc mắc “duềnh quyên” là “cái quái gì vậy?” Bạn nói tiếp, “Tôi chưa bao giờ nghe hay đọc cái chữ mà khi đọc muốn trẹo quai hàm đó, cậu có bịa chữ thì cũng bịa vừa vừa thôi chứ, làm quá cậu ‘ngộ chữ’ thì khốn, bởi vì từ ‘ngộ chữ’ đến tâm thần chỉ là khoảng cách cận kề… Cậu biết chửa?”

 

Anh bạn tôi còn nói nhiều nữa, nhưng tôi từ tốn ngắt lời anh bảo anh đừng nóng nẩy, có mắng mỏ lên án thì chí ít cho tôi biện bạch vài lời đã, và tôi nhỏ nhẹ bảo anh:

 

Bạn ạ, “duềnh” theo từ điển Việt Nam của cụ Lê Ngọc Trụ nguyên nghĩa là vụng nước. “Duềnh quyên” là vụng nước có mặt trăng soi vào lấp lánh. Cụ Nguyễn Du thích nhóm từ này lắm vì nó giàu hình ảnh. Tả cảnh Kiều ngồi buồn bã trước lầu Ngưng Bích, cụ viết:

 

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

 

Và cụ Trần Trọng Kim chú giải “duềnh” là vụng bể, vực sâu, bởi lầu Ngưng Bích trông ra cửa bể.

 

Từ “duềnh” còn được dùng để tả khúc sông Tiền Đường nơi Kiều, trong tuyệt vọng, gieo mình  tìm cái chết sau khi Từ Hải nghe lời Kiều về hàng triều đình để rồi mắc lừa Hồ Tôn Hiến mà uất khí chết đứng giữa trận tiền.

 

Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,

Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.

 

Đoạn này trong truyện thì cụ Trần Trọng Kim chú giải “duềnh ngân” là vũng nước.

 

Từ “duềnh” còn được Nguyễn Du sử dụng một lần nữa, lúc Kiều tái hồi Kim Trọng. Như chúng ta đã biết, lúc gặp lại gia đình sau 15 năm lưu lạc, Kiều không muốn theo người thân về nhà vì nghĩ tấm thân mình hoen ố quá đỗi rồi, về nhà chỉ làm ô danh dòng tộc mà thôi. Nhưng bị mọi người nài nỉ, Kiều khứng chịu về. Trong bữa tiệc đoàn viên trước mặt mọi người, Thúy Vân đứng lên xin “tác hợp cơ trời” cho Kiều làm vợ Kim Trọng, “đem duyên chị buộc vào duyên em.” (Kim Trọng nghe vợ mình nói thế, chắc mở cờ trong bụng, sướng run. Mười lăm năm người yêu lưu lạc, đọa đày, mình lấy em gái người yêu làm vợ, ra làm quan hưởng bao ân huệ cuộc đời, hạnh phúc ấm êm, bây giờ người yêu trở về, mình được phép lấy luôn làm vợ! Trời! Chàng Kim này sao mà tốt số!)

 

Thế nhưng Kiều nào chịu vậy. Nàng cảm kích nghĩa tình của Kim, “Chàng dù nghĩ đến tình xa,” nhưng thôi chàng ơi, mình nên “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” đi chàng. Kiều miễn cưỡng làm lễ thành hôn với Kim, nhưng nàng hổng chịu cho Kim make love. Lúc hai người ngồi riêng trong phòng hoa chúc, nàng chỉ cầm đàn gảy cho chàng nghe.

 

Khúc đâu đầm ấm dương hòa,     

Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?

Khúc đâu êm ái xuân tình,

Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên.

Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.

 

Tiếng đàn của Kiều lần này là tiếng đàn của hạnh phúc, lai láng tình xuân. Thật vậy, theo nhà nghiên cứu văn học Trần Đình Sử, nếu dựa vào tinh thần mấy câu thơ trên thì Kiều chưa hết đường tình ái đâu. Mặc dù ngoài mặt nàng từ chối việc gối chăn với Kim Trọng nhưng trong lòng nàng vẫn còn deeply in love với chàng, và thịt da nàng vẫn còn rạo rực, trái tim vẫn còn loạn nhịp, bởi không cháy bỏng tâm can thì tiếng đàn không thể “nghe suốt năm cung” và cũng không thể “não nùng xôn xao” được.

 

Sáu câu thơ ấy, Nguyễn Du dịch ý từ bốn câu Cầm Sắt của nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường:

 

Trang sinh hiểu rộng mê hồ điệp

Thục đế xuân tâm hóa đỗ quyên

Thượng hải nguyệt minh châu hữu lệ

Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên.

 

Vẫn theo ông Trần thì sáu câu thơ Nguyễn Du diễn tả tiếng đàn vào lúc này của Kiều có cái lạ. Nó thấm đẫm tình dục! Trang Chu mộng thấy mình hóa bướm, cả hai hòa nhập vào nhau không tách ra được; Thục Đế hóa thành chim đỗ quyên, không biết là thân chim quyên hay thân Thục Đế, hai thân cũng xoắn xuýt không rời. Tất cả là ẩn dụ nói về hai thân xác nam nữ nhập vào nhau. Đắm đuối. Đắm đuối thì tiếng đàn mới “đầm ấm dương hòa” và “êm ái xuân tình” chứ.

 

Nguyễn Du kết khúc phân cảnh này bằng hai câu tuyệt tác có cụm từ “duềnh quyên,” mà tôi xin mượn cách bình giải của ông Trần như sau:

 

“Châu nhỏ duềnh quyên” là giọt ngọc nhỏ xuống duềnh nước có bóng trăng soi, một hình ảnh gợi tình nam nữ. Còn nắng ấm (dương) làm cho hạt ngọc Lam Điền đông cứng lại, cũng là một cảnh hòa hợp, sinh thành. Một người một bướm, một người một chim, một giọt ngọc một vụng nước, một ánh dương soi một sự sinh thành, bốn hình ảnh đều khêu gợi mối dục tình nam nữ một cách kín đáo, hàm ẩn. Nó dự báo mối tình Kim-Kiều rồi sẽ còn có hậu. Khúc đàn tái hợp của Kiều đã nói lên lòng nàng, vẫn một tấm lòng yêu đời thiết tha, trong sáng.

 

Anh bạn tôi ơi, đến đây thì chắc bạn đã tạm bằng lòng với câu trả lời của tôi về nguồn gốc cụm từ “duềnh quyên” mà tôi dùng trong bài thơ Nghìn thu từ độ. Tiện đây, tôi cũng xin nói luôn với bạn là, đối với tôi, “duềnh” là cái gì rất thực, rất thân quen, không phải hình tượng văn chương thơ phú.

 

Họa sĩ thường bị ám ảnh bởi một màu sắc hay đường nét nào đó suốt khoảng thời gian dài trong cuộc đời sáng tạo của mình, và họa sĩ có xu hướng phả hình tượng cùng màu sắc đó lên mặt canvas. Picasso thời kì xanh, thời kì hồng, chẳng hạn. Những kẻ làm thơ như tôi thì bị ám ảnh bởi những từ mà tôi không sao giải thích được. Tuy thế, có một từ lúc nào cũng lởn vởn trong tâm trí tôi từ nhiều năm và tôi có thể giải thích được tại sao, đó là từ “duềnh.”

 

Đằng sau nhà tôi hiện nay ở miền Nam California là một con lạch nhỏ. Mở ứng dụng Google Map, bạn sẽ thấy nó là một lằn chỉ màu xanh dương ngoằn ngoèo tên San Diego Creek, chạy theo trục đông bắc – tây nam từ phía đông thành phố Irvine qua Newport Beach rồi đổ vào Upper Newport Bay State Marine Conservation Area, một vùng sinh thái hiếm hoi của miền đất này bởi đất đai ở đây đắt hơn vàng, đất để xây nhà cao tầng và biệt thự, mỗi căn từ hai ba triệu đô la trở lên, chứ chẳng ai quan tâm đến những vấn đề vớ vẩn như bầy chim di chớm đông bay từ Canada xuống không có ao nước ngọt, hay mấy con ba ba từ biển xa về không tìm ra bãi cát đẻ trứng, vân vân. Con lạch bé lắm, thật ra chỉ dùng vào việc thoát nước của khu vực, lại ngắn ngủn như tôi vừa miêu tả, nhưng khúc chảy sau nhà tôi lại có một cái duềnh. Mùa khô cạn nước, cỏ hoang và cây dại mọc lên um tùm, nhưng sau một trận mưa thì nước dềnh lên thành một cái ao nhỏ. Và kì diệu thay mầm sống! Ngay lập tức vài con cò bay đến thơ thẩn kiếm tôm cá ăn. Dọc theo con lạch là lối đi bộ và chạy xe đạp. Gần như mỗi ngày, cơm nước xong, tôi đều ra đi bộ đến khúc có cái duềnh, đứng trên cầu tìm con cò trắng, cổ dài ngoằng. Có hôm nó đến kiếm ăn, có hôm không. Nhưng có hôm nó rủ thêm vài cò bạn, cả bầy nhẩn nha đánh chén suốt buổi. Gần đó vài chú vịt trời bơi lội loăng quăng ra chiều thư thái lắm. Nhìn bầy chim dưới duềnh, lòng tôi cũng thư thái không kém, một cảm giác thật hiếm hoi, quý giá, trong cuộc sống tất bật hôm nay.

 

Những hôm có trăng, trời quang mây tạnh, đợi lúc trăng lên cao gần đỉnh trời, mất ngủ, tôi lại khoác áo bước vài bước ra xem cái “duềnh quyên.” Mấy mươi năm rồi, tôi ở căn nhà này, bao nhiêu lần nhìn nó, riết rồi tôi xem nó là cái gì riêng tư, của tôi, và cũng chẳng có ai tranh giành nó với tôi.

 

Chưa hết. Tôi còn một cái duềnh thứ hai.

 

Cũng con lạch San Diego Creek đó, qua đến địa phận Newport Beach, nó doãng ra thành một hồ nước rộng trước khi đổ ra vụng nước sinh thái và cuối cùng là biển Thái Bình. Một chút hoang sơ giữa lòng đô thị, duềnh nước lai láng dù là mùa khô hạn, giữa duềnh nổi lên vài cồn cát, trên mọc hoang vài cây con và cỏ dại. Dọc theo bờ vẫn con đường đi bộ và chạy xe đạp, hai bên đủ loại cây cối và bụi rậm chen nhau rợp bóng. Vào một đêm trăng sáng, bạn hãy đưa người yêu đến đây thay vì chui vào mấy cái vũ trường hay hộp đêm sặc sụa mùi rượu bia và son phấn rẻ tiền, tôi bảo đảm người yêu bạn sẽ ôm hôn bạn đắm đuối.

 

Điều may mắn cho tôi là suốt mấy mươi năm qua, cơ quan tôi làm việc chỉ quanh quẩn xung quanh cái duềnh nước đó, dù tôi thay đổi khá nhiều công ti. Ít nhất mỗi tuần một lần, sau những giờ phút căng thẳng với công việc, tôi hay lái xe lên đây, giở cà men ra ăn trưa rồi ra ngoài đi bộ chừng nửa tiếng đồng hồ. Cái duềnh lớn này theo năm tháng cũng ăn sâu vào tâm trí tôi như một cái gì rất riêng tư bên cạnh cái duềnh nhỏ sau nhà.

 

Tôi bị ám ảnh bởi nhóm từ “duềnh quyên” trong thơ tôi là phải thôi, nhất là từ khi tôi đọc được bài thơ haiku này của Thiền sư Choshu người Nhật Bản:

 

The moon in the water,
Broken & broken again,
Still it is there.

 

Không biết tiếng Nhật, tôi chỉ đọc bản tiếng Anh, và mạo muội dịch ra tiếng Việt như sau (rất mong có bạn nào biết tiếng Nhật giúp tôi hoàn chỉnh bản dịch):

 

Duềnh quyên,

Tan vỡ, rồi tan vỡ,

Trăng vẫn còn nguyên.

 

Hãy nghe Thiền sư Osho của thế kỉ XX bình chú bài haiku này:

 

Bởi mỗi khi gió thổi đến, mặt hồ gợn sóng, mặt trăng (trên mặt hồ) vỡ tan thành nghìn mảnh. Nhưng rồi hồ lại lặng yên và tất cả những mảnh vỡ đó tụ lại thành mặt trăng. Bởi nó chỉ là cái bóng phản chiếu mặt trăng nên cái bóng tan vỡ chứ không phải mặt trăng. Cho dù cái bóng tan vỡ thành nghìn mảnh vụn, mặt trăng vẫn còn nguyên ở đó. Tất cả thân, tâm, đời sống chúng ta là cái bóng phản chiếu trên mặt duềnh, vỡ tan thành nghìn mảnh. Tuy vậy, nằm sâu trong hiện thể của ta, mặt trăng vẫn như cũ, muôn đời đầy đặn và tuyệt hảo.

 

Tất cả thân, tâm, đời sống chúng ta là cái bóng phản chiếu trên mặt duềnh, vỡ tan thành nghìn mảnh, bởi chúng ta hiện sống trong thế giới ảo, không có gì thật. Ngay cả những câu chữ tôi đang viết cho bạn đây cũng không thật. Cái ảo có sức quyến rũ lạ kì, như có ma lực, đẹp mê hồn, làm mê muội lòng người, nó cuốn hút tôi, bạn, tất cả chúng ta, vào đó, tan vỡ như bóng trăng trên mặt duềnh. Con người sinh ra, để lại những giấc mơ ảo, rồi biến mất. Hai câu thơ “Duềnh quyên bóng động hai hàng, Nghìn thu từ độ vẫn bàng hoàng trôi” là lời tự thán biết vậy mà chẳng làm gì khác được.

 

                                                                   Duềnh nhỏ sau nhà

 

                                                    Duềnh lớn, Newport Beach, CA



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.