Hôm nay,  

VÔ ĐỀ

24/01/201915:40:00(Xem: 5355)

VÔ ĐỀ

 

Nguyễn Văn Sâm

 

Cho hương hồn bạn, nhà biên khảo sử TĐPhong.

 

Ngữ cặp nách cái bao thơ đựng bản thảo mới in hồi tối, cầm lo le ly cà phê bước ra khỏi tiệm.  Thói quen thường ngày của Ngữ là vô Starbucks mua một ly Cappuccino, kiếm chỗ ngồi xuống ở một cái ghế sofa nào đó trống, nhắm nháp từng chút từng chút, thưởng thức chầm chậm hương vị thơm tho đặc biệt của loại cà phê nầy rồi đứng dậy lững thững ra cửa khi ly còn độ nửa phần.  Gió buốt tháng cuối đông thổi ù ù lạnh cắt tai như thì thầm rủ gọi về nơi miên viễn.  Ngữ rùng mình kéo cao cổ áo hơn, co ro bước lần đến chỗ đậu xe.  Như là hơi choáng váng, như nghe đâu đó đau đau nhè nhẹ trên nửa đỉnh đầu bên mặt.  Đứng lại một phút để định thần và nín thở để cơn đau lướt qua.  Chẳng biết có gì quan trọng không mà chuyện bực mình nầy xảy ra hoài hoài, khám bệnh với biết bao thử nghiệm chẳng thấy gì, mất thời giờ mà triệu chứng trở đi trở lại hằng xuyên như những lời quảng cáo rao hàng trên mấy đài phát thanh địa phương lúc nầy nở rộ trên khắp đất nước định cư.

Ngữ nói với căn bịnh bằng cái mỉm cười hơi meo méo miệng:

“Mầy đã lớn, đã ngon lành thì hiện ra đi, chớ mờ ớ ẩn ẩn hiện hiện tao chán quá rồi, chắc tại hồi tối tao nhâm nhi mấy ly rượu với ba con tôm khô cũ mốc để từ thời cố Hỉ cố Lai tới giờ chứ gì?”

Lại có cơn đau nữa nhoi nhói.  Ngữ tiếp:

“Hay là tại ăn uống mỡ mòng, lòng heo, lòng gà bao nhiêu năm trước khi qua đây?  Lâu rồi bạn ơi, bỏ qua đi Tám.” Ngữ cố tình khôi hài với căn bịnh của mình.

Có tiếng ai đó hỏi trước mặt:

“Sao nói lẩm bẩm một mình vậy chàng, uống cà-phê mà cầm ra ngoài trời lạnh còn đâu là hương vị?”

“Muốn vào lại không, trong đó còn cái sofa trống, tao thích ngồi chỗ đó hơn.”

“Nghe nói độ rày mầy buồn lắm, tới độ chán đời lận, vậy mà còn chọn chỗ ngồi nữa sao?  Thôi vô lại nói chuyện đời chút chút chơi.”

Hai người bạn ngồi yên, nhìn bâng quơ ra ngoài cửa kính, tôn trọng sự suy nghĩ của nhau.

Chừng mười phút, Ngữ phá tan bầu không khí quá tĩnh lặng:

“Nói tao chán đời là sai.  Tao vẫn yêu đời, vẫn còn sẵn sàng đón nhận những thực phẩm của trời đất, vẫn chia sẽ vui buồn của cuộc đời với người chung quanh, vẫn làm tròn bổn phận với các thành viên của gia đình.  Nhưng hơn một năm nay tao không còn tha thiết với chính đời sống nầy nữa cũng như không thấy quí cái con người của tao nữa.  Nó lạnh băng nằm đó, hay hóa hư không cũng chẳng còn quan trọng gì.”

Đôi mắt thằng bạn ngạc nhiên mở to chăm chú nhìn Ngữ.

“Nghĩa là tao cảm nhận cái chết chẳng có gì đáng sợ hải và sự hiện hữu của cá nhân anh chàng Ngữ bằng xương bằng thịt được cái tâm linh vô ảnh gọi là Ngữ đón nhận một cách hững hờ, băng giá.”

“Mầy làm cho cuộc đời rắc rối ra thêm.  Cá nhân bằng xương thịt và tâm linh vô ảnh phải kết hợp làm một mầy mới hiện hữu, mới hoạt động được.  Không có chuyện tách ra làm hai của hai thứ nầy đau con, đừng nghèo mà ham.” Một cái cười phá hơi lớn như khỏa lấp câu chuyện đang có vẽ nặng nề.  “Ông đi đàng ông, bà đi đàng bà là không có tui à nhe!”

“Có thể tao không lý giải được tâm trạng mình nhưng tao dửng dưng và vô cảm với sự chết sống.  Hồi đó nghe những chuyện tự kết thúc đời cách đặc biệt như Ernest Hemingway của Mỹ, Kawabata  của Nhật, gần đây nghe Keven Carter của Nam Phi, Nguyễn Tất Nhiên của Việt Nam tao nghĩ là mấy ông văn nghệ sĩ nầy vô lý bỏ mẹ, nhà văn nhà thơ, nhà nhiếp ảnh nghệ thuật mà, mầy biết đó, lộn xộn rắc rối kinh khủng, họ có những ý nghĩ khác thường lắm, giờ mới thấy họ có cái lý mà mình không thông hiểu được.”

Ngữ đổi tư thế ngồi, đưa chưn thẳng ra trước mặt, thoải mái chờ đợi một câu hỏi.  Người bạn húp một ngụm chocolate nóng, ngó đăm đăm vô mắt Ngữ:

“Cuộc đời nầy luôn luôn có lý và quí giá đối với đa số chúng sanh, nhưng tới lúc nào đó, đối với một cá nhân đặc biệt nào đó, chẳng đáng một đồng xu teng.  Phải không?”

Ngữ mỉm cười gật đầu, nói nhỏ:

“Nhưng tao không đặc biệt!”

Người bạn đổi giọng thân mật và nghiêm chỉnh:

 “Làm bác sĩ mình không giải quyết được ý tưởng khác thường của cậu, nhưng mình nghĩ cậu có bịnh gì đó cậu dấu thin thít không nói ra cho anh em.  Cũng có thể cậu đang bị bịnh … xuống tinh thần, bệnh trầm cảm.  Đây cũng là một thứ bịnh cần bác sĩ chuyên môn chẩn đoán.  Phòng mạch mình luôn luôn mở cửa đối với bạn bè, hôm nào hưỡn huỡn bạn ghé tới.  Lựa lúc hơi chiều chiều tụi mình đi ăn cơm luôn.  Đừng để lâu không tốt.”

Ngữ xiết chặt cái bàn tay mập tròn và trắng trẻo của bạn thay lời cảm ơn.  Anh nói trong khi từ tốn mở cái bao thơ đựng bản thảo nãy giờ để trên đùi:

“Thôi chuyển đề tài!  Khoe với mầy đứa con tinh thần mới của tao, sắp hoàn thành chỉ còn chương cuối và kết luận ngăn ngắn là xong.”

Người bạn nhìn sơ qua cái tựa, lật lướt vài trang, đọc đứt khoảng thật mau, nói:

“Nhân vật lịch sử nầy cần phải được những người như mầy viết để sự thật về biến cố đau thương vừa qua được đánh giá đúng mức.”

“Tao say mê đề tài nầy nhưng viết rồi lại sợ.  Sợ ý nghĩ của mình nổ ra những tranh luận vô ích.  Xưa còn trẻ viết nhiều khi không cần đọc lại và hãnh diện vì điều ngang ngạnh đó, bây giờ lớn tuổi rồi đâm ra sợ chính những điều mình viết.  Sợ lắm mà cái nghiệp nó bắt cứ viết hoài.”

Chia tay bạn, Ngữ loay hoay với ý nghĩa mình đang bị bịnh xuống tinh thần, một căn bịnh tâm lý do cuộc sống quá nhiều chuyện thị phi không đâu kéo tới hằng ngày.  Anh lý luận với chính mình, mình có lo lắng gì đâu, đã gọi là dửng dưng làm sao có lo lắng, còn nói chuyện cười vui bình thường sao gọi là trầm cảm được?  Và Ngữ lúc lắc đầu như muốn xua đi những điều lẩm cẩm… Anh đong đưa gói bánh ngọt người bạn nài nỉ cầm về để ăn buổi xế xế trưa khi buồn miệng.

Một người da trắng râu quai nón, cao lỏng khỏng bước tới xe trước khi cửa được mở, ông ta mỉm cười đau khổ khi Ngữ ngừng tay lại.  Ngữ lên tiếng trước:

“Chào anh, trời lạnh ha!  Mấy hôm nay trời lạnh đột ngột quá!”

Lại cái cười làm thân như thường thấy của những người chưa quen.

“Lạnh thì có lạnh, nhưng lạnh bên trong lòng kẻ không nhà tê tái hơn nhiều.” Anh ta vừa nói vừa ngó chăm chăm ly cà phê trên tay Ngữ. 

“Xin lỗi, tôi uống dang dở, bạn có thể dùng mấy cái nầy.” Ngữ đưa nguyên gói bánh cho người không nhà.  “Lạnh quá chớ không thì tôi đi vào mua ly khác cho bạn.”

“Tôi là Cựu Chiến binh Mỹ ở Việt Nam, Từng đóng ở Cat Lo, Vung Tau.  Có nhiều kỷ niệm thời trẻ của tôi với cái xứ dễ thương của anh….”

“Chúng ta là những người đã tham dự một cuộc chiến kỳ quặc, anh thấy đó, đất nước tôi đến bây giờ vẫn chưa khá gì hơn xưa.”

Ngữ lục lọi trong túi mấy tờ giấy bạc nhăn nhíu, tránh móc bóp trước mặt người lạ.

“Anh bạn cầm đỡ vui mùa Christmas nầy.  Chỉ được có bấy nhiêu vì tôi cũng chẳng may mắn gì hơn bạn lắm đâu.”

Người đàn ông râu quai nón tiếp lấy tiền, bàn tay run run vì cảm động.

“Cám ơn ông, ông dễ tin người quá, đứng nói chuyên thân mật kiểu nầy ông có thể bị nguy hiểm như chơi.”

Ngữ mở cửa xe, leo lên chỗ ngồi, quay cửa xuống nói ra, giọng thiệt vui:

 “Vậy đó, tôi thà bị nguy hiểm hơn là bỏ lỡ dip giúp một người mình có thể giúp.”

Hai người vẫy tay như đôi bạn thân thiết lâu ngày.  Ngữ quay kiếng xe lên, ngó theo cử chỉ co ro của người kia vừa đi vừa thưởng thức cái bánh của mình mà thấy thơ thới trong lòng, cảm giác thanh thản trước những hành vi thiệt bình thường của cuộc sống.  Trong kiếng chiếu hậu Ngữ thấy anh ta còn cố quay người lại để chào lần nữa bằng cánh tay cầm gói bánh giơ lên cao và giọng hét thiệt lớn như muốn át đi tiếng gió: “Chào ông Già Noel, chúc ông Già Noel vui….”

Ngữ chép miệng:

“Cám ơn thực phẩm của đời.”

 

Mở mắt ra Ngữ thấy mình nằm ở chỗ lạ.  Chỉ nhớ được là mình đã té lúc sáng sớm khi thức dậy đi tiểu vài lần như mọi đêm.  Cái té chẳng khác trời giáng và anh nằm mẹp dưới đất luôn, Bà ấy dắt con Ki đi ra công viên sớm, lúc ấy kêu cứu cũng chẳng có ai ở nhà.  Bây giờ thức giấc thấy mình nằm trong một căn phòng hơi xập xệ như là một nhà thương dưỡng lão.  Cùng phòng có cái giường của một ông già cũng dây nhợ chằng chịt như mình.  Đầu óc tỉnh táo, Ngữ đảo mắt quan sát tuy hơi chóng mặt một chút.  Cố gắng nhúc nhích cái đầu qua một bên để nhìn rõ hơn chung quanh nhưng không thể được.  Thử ễnh ngực hay chuyển động phần bụng cho đỡ mỏi cũng không xong.  Ngó xuống chưn thì thấy bít bùng, thử nhúc nhích bàn chưn thì cứng ngắc như thân thể tạc bằng đá.  Chỉ có bắp thịt mặt và hai bàn tay là còn cử động chút chút được thôi. 

Những người của gia đình ông già nằm giường bên tưởng Ngữ mê man nên mặc sức bàn tán cò kè nhau về số tiền bảo hiểm sẽ nhận được.  Ngữ nghe mà ngao ngán, muốn tỉnh dậy để khám phá thêm nữa những thực phẩm chua chát của đời.

Con chị lớn cong cớn nói với đứa em Út vốn lâu nay nuôi cha mình:

“Mầy lấy tiền già của ổng mầy đóng tiền bảo hiểm thì tiền nhận được ít nhứt phải chia cho ba chị em mình, sao mầy đòi lấy hết?  Mầy giàu mà còn tham.”

“Tôi phải nuôi ổng mấy năm nay, vợ con cằn nhằn cực khổ biết là bao nhiêu, tiền đóng bảo hiểm đó là tiền của tôi bỏ ra vì tiền già của ổng bỏ vô chi phí ăn uống, thuốc men và đưa ổng gởi về Việt Nam cho má và bà con.  Bộ chị tưởng tám trăm hằng tháng đủ sao chớ?  Hồi đó giao cho chị nuôi chị lấy tiền đó sao không chịu lãnh?”

Tiếng người khác, như là người anh của thằng Út:

“Mầy nói vậy mà nghe được sao, cha là cha chung thì tiền bảo hiểm của ổng là của chung phải chia ba mới công bình.  Mầy làm bác sĩ giàu quá rồi còn đòi lấy hết coi sao được.”

“Giàu thì sao, tôi học là tiền vay nợ chứ đâu có học bằng tiền của ba đâu, khá chút đỉnh là nhờ bên nhà vợ, hồi đó ba giàu nuôi mấy người ăn học, không lo học bây giờ than nghèo, khó nghe quá…”

Ông già chợt trở mình, thở hắt ra, cái máy chỉ nhịp đập tim của ông bây giờ biểu diễn một lằn xanh dài nằm ngang, tiếng bip bip cũng êm ru….

Cuộc cãi vã xào xáo tạm tan, còn lại là sự ồn ào của tiếng khóc than không nhiều tình cảm.  Ngữ nhắm mắt giả tình không hay biết gì về hoạt cảnh chung quanh.

 

Tôi bỗng nhiên thấy mình muốn sống hết sức.  Hình như tôi chưa biết tình đời kỳ khôi như vậy của ba chị em trong một gia đình mà người nào người nấy cũng lớn hết, cũng thành nhơn chi mỹ hết.  Lỗ mũi ngứa quá muốn đưa tay lên gãi mà dòm lại thì thấy tay mình không nhúc nhích được.  Tôi nhắm mắt, vận dụng hết sức bình sanh để điều khiển bàn tay, nó cũng trơ trơ, chắc là tôi bị liệt toàn thân rồi.  Cổ họng khô rang, khát nước như đương đi trong sa mạc và đói bụng quá chừng.  Đói còn hơn lúc linh đinh ba bốn ngày trên biển cả.

Tôi nhớ lại ông bà mình nói người sắp chết thường khao khát sống, hiện tôi muốn sống quá chừng qua đỗi đi.  Phải cầu Phật Bà Quan Âm, Phật Tổ độ cho tôi đươc sống.  Tôi chưa hiểu hết cuộc đời nầy mà.  Chiến trận.  Tù đày.  Nhục nhã.  Đạp xích lô.  Vợ bỏ.  Con bỏ.  Tôi nhớ hết từng chuyện từng chuyện với thiệt là đầy đủ chi tiết như có khúc phim video chiếu chậm trong đầu.  Nghe văng vẳng người bạn nói “buông xả, buông xả, đừng nhớ chuyện cũ, nhứt là chuyện đau khổ thù hằn”.  Tôi nhắm mắt lại một lúc thiệt lâu.  Nhớ đến những chuyện mình làm tốt.  Cứu đồng đội.  Giúp người khổ nạn.  Sống chết hết mình với bạn đồng thuyền trên biển cả.  Hỗ trợ cho bạn bè thất cơ lỡ vận…Tiếng người bạn tiếp tục: “Buông xả, buông xả, cũng đừng nghĩ tới đến chuyện mình làm tốt ngày trước nữa vì càng nghĩ nhớ thì hồn linh càng bám víu vào đời.” Như là người bạn hát nho nhỏ bài ca chúng tôi rất thích hồi đó, lâu lắm rồi.  Tôi đưa tay lên tắt bài hát….

 

Ngữ mở mắt ra thì thấy mình đương ở phòng khác, người nhà và bạn bè đứng lố nhố quanh giường, không có vợ Ngữ, chỉ có thằng bạn thân.  Người bạn nắm tay Ngữ thân thiết, bịnh nhân cảm giác mình sắp chảy nước mắt.  Người bạn hỏi:

“Biết ai đây không?”

Tiếng trả lời không biến thanh và phát ra với đầy đủ yếu tố tình cảm chứa trong ngôn ngữ nhưng thiệt yếu như mỏn hơi, gần sát bên mới nghe được. 

“Phòng mạch đóng cửa sớm đi thăm bạn hả?”

Người bạn bóp tay Ngữ như từng được bóp cách nay ba tháng trong tiệm cà phê Starkbucks, cười gượng gạo:

“Vậy là cậu ngon lành rồi, rán tỉnh lại để viết cho xong quyển sách đi nhe, mọi người chờ đó.  Cậu viết được lắm.  Số một!”

“Còn bốn quyển nữa chứ không phải chỉ có quyển đó thôi.”

Người bạn buông tay Ngữ ra, xoa xoa dài theo cánh tay trần của Ngữ, mắt nhìn thẳng vào mắt anh lúc nầy đã từ từ nhắm lại, gương mặt xanh xao thất thần.

“Cậu nói với tôi đi, cậu muốn gì, điều cần nhứt là phải thanh thản, buông xả, buông xả.  Đừng nghĩ ngợi lung tung.  Đừng nghĩ tới hận thù hay điều bất hạnh trong đời.”

Người bịnh mấp máy đôi môi, tiếng nói đã biến âm và rất nhỏ, thì thào xa xăm…

“Khát nước và đói bụng lắm cậu à.  Mình chắc sẽ đi vì đói khát.  Buồn ghê!”

“Cậu không nên nói vậy, nên nghĩ đến những điều đã làm tốt trong đời.  Nhân duyên tốt được gợi về làm cho tâm thức mình phấn chấn hơn, nhiều khi bịnh lại lui.”

Ngữ nhớ tới những lúc giúp người, những khi xả thân và lúc dốc túi mình vì người thiên hạ không quen.  Anh thấy thanh thản tuy rằng khát nước quá độ.  Anh thiếp đi, bàn tay trơ trơ trong tay người bạn, cố nói câu: tôi không biết mình đương ham sống hay đương buông đời sống.  Nhưng tiếng nói không phát ra được, mắt anh nhắm nghiền mệt mỏi thiệt là mệt mỏi.  Người bạn áp mặt mình sát tai Ngữ nói buông xả, buông xả rồi hát nho nho:  

Hãy nói về cuộc đời.

Khi tôi không còn nữa.

Sẽ lấy được những gì.

Về bên kia thế giới,

Ngoài trống vắng mà thôi,

Ngữ ơi và tình ơi.[1]

Có tiếng đàn bà hơi lớn giọng trước phòng.  Người bạn đứng dậy, thở dài, im lặng bước ra, rửa tay bằng chất tẩy trùng được gắn gần bên cửa ra vào.  Vô tình anh thấy tấm bảng dán ở đây bằng hai thứ tiếng mà lúc vào vô ý chẳng thấy:

“Vì sức khỏe của bệnh nhân, xin bà con bè bạn đừng vào phòng.”

Người bạn chợt húng hắng ho, anh nhìn hàng cây xơ xác trước cổng bệnh viện, gió đông lạnh thổi bay trần trụi thêm những chiếc lá trên cành vốn đã lơ thơ…. 

Nguyễn Văn Sâm

San Jose, CA, Dec. 10-22, 2009

(Những ngày buồn thế sự)


 



[1] Thơ Du Tử Lê, nhạc Anh Bằng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.