Hôm nay,  

Cuộc Đời Của Nàng Kỹ Nữ Sirimà

02/03/201905:48:00(Xem: 6770)

CUỘC ĐỜI CỦA NÀNG KỸ NỮ SIRIMÀ

 
Phan Minh Hành


blank

Nguồn: Internet

        

         Cách xa trung tâm Little SaiGon về hướng đông khoảng gần ba giờ lái xe, có một thành phố nhỏ, ít dân cư, khô cằn và nóng bức, một thiền viện khang trang được dựng lên trong khu đất rộng lớn, chỉ có một vị Hòa Thượng già đơn độc trông coi. Thiền viện nầy vắng như chùa bà Đanh, phải chờ đến cuối tuần hay vào những dịp lễ mới thấy khoảng chừng 10 hay 20 người ghé thăm thiền viện, lễ Phật, thiền định và nghe vị Hòa Thượng già thuyết pháp. Vào ngày thứ bảy cuối tuần, khoảng gần 20 phật tử ngồi trong chánh điện đang lắng nghe Hòa Thượng giảng về sự tích nàng Sirimà, một kỹ nữ xinh đẹp tuyệt trần vào thời Đức Thế Tôn. Trong thành Vương Xá thời đó nàng Sirimà nổi danh là một kỹ nữ xinh đẹp ngất trời, đàn ông nào đối diện trước nhan sắc cực kỳ diễm lệ ở nàng phải say đắm và mê mệt, đến nỗi mắt như muốn nổ tung, tim đập vang như trống chầu và đều mơ ước được gần bên nàng. Trong đó có một Tỳ kheo, dù chưa nhìn thấy Sirimà lần nào, chỉ nghe danh tiếng nàng mà đã mộng mơ và đem lòng si tình đến nàng kỹ nữ Sirimà. Nhưng chỉ hàng giai cấp giàu có mới chiếm được thân xác nàng Sirimà, bởi vì phải chi trả một số tiền rất lớn, đến 1000 tiền vàng thời ấy mới được vui vầy với nàng. Đức Thế Tôn biết chuyện phạm giới của vị Tỳ kheo trẻ nầy, nên sau khi nàng Sirimà lâm bệnh và từ trần, Đức Thế Tôn xin nhà vua không làm lễ hỏa táng thân xác Sirimà, mà hãy canh giữ cẩn thận, đừng để cho loài diều quạ ăn thịt thi hài nàng Sirimà.

         Vị Hòa Thượng già ngưng giảng, lướt nhìn quanh các phật tử đang ngồi trong chánh điện và hỏi có phật tử nào hiểu lý do vì sao Đức Thế Tôn không cho hỏa thiêu thân xác nàng kỹ nữ Sirimà hay không? Một vị phật tử lớn tuổi, đầu bạc trắng xóa, gật đầu và đứng lên, không trả lời trực tiếp câu hỏi của vị Hòa Thượng già, nói nhỏ nhẹ rằng cuộc đời của nàng kỹ nữ Sirimà có liên hệ đến nàng Uttarà, nên thỉnh cầu Hòa Thượng giảng tiếp. Vị Hòa Thượng gật đầu đồng ý và nói rằng nhờ tấm lòng từ bi, không sân hận của nàng Uttarà đã không những thứ tha lỗi lầm của Sirimà, mà còn hướng dẫn cho nàng Sirimà đến gặp Đức Thế Tôn và được Ngài giáo hóa cuộc đời mình thoát cảnh bùn nhơ của đời kỹ nữ. Hớp vài ngợp nước Hòa Thượng tiếp tục giảng tiếp về nàng Sirimà.
 

         Vào thời Đức Thế Tôn cư trú tại thành Xá Vệ, có một nông dân nghèo khó tên là Punna đang làm công cho một đại phú gia trong làng. Punna có vợ và một cô con gái tên là Uttarà. Một ngày ông đại phú gia tụ tập tất cả gia nhân trong nhà và nói:

"Nay mai trong làng có lễ hội kéo dài suốt một tuần lễ. Ta cho phép tất cả ngưng làm việc và cùng với ta tham gia lễ hội. Ai muốn ở lại nhà, ta sẽ cho mượn đôi bò để cầy cấy".

          Vừa nghe như thế Punna quá đỗi mừng vui, tự nguyện không muốn tham gia lễ hội để nhận hai con bò mà cấy cầy kiếm thêm cơm cháo, giúp đỡ vợ con. Vài ngày sau đó trong khi tất cả mọi người trong làng hớn hở vui chơi lễ hội, Punna cũng hăng hái mang túi cơm và bình nước đi ra đồng ruộng cày bừa, không quên căn dặn người vợ hiền nhớ đến buổi trưa hãy mang thêm phần cơm và nước cho chàng. Nói xong Punna vác cày lên vai và kéo đôi bò chậm rãi đi hướng về cánh đồng ruộng xanh. Đồng thời lúc ấy có một trưởng giả cũng từng bước chân mang bình bát đi khất thực về hướng ra cánh đồng, nơi Punna đang cày bừa. Từ đàng xa nhìn thấy vị trưởng giả ấy, Punna vội vã bước nhanh tới và hoan hỉ dâng hai tay phần ăn trưa của mình cho vị trưởng giả. Đến gần trưa người vợ của Punna mang phần cơm cho chồng, cũng trông thấy vị trưởng giả ấy đi về hướng nhà mình, người vợ cũng hối hả bước tới và hoan hỉ dâng hai tay phần cơm của chồng cho vị trưởng giả. Hai vợ chồng chẳng hề biết đó chính là vị trưởng giả Xá Lợi Phất, muốn tạo duyên cho hai vợ chồng nầy cúng dường tam bảo đặng gầy dựng công đức trong tương lai. Chính nhờ việc bố thí tam luân không tịch của hai vợ chồng Punna, tức là bố thí một cách không biết người bố thí, không biết người nhận bố thí và cũng không biết vật bố thí, mà sau đó đôi vợ chồng trở nên giàu có, được dân trong thành kính trọng, được nhà Vua ban thưởng và được Đức Thế Tôn chứng cho quả Dự lưu. Còn nàng Uttarà là con gái độc nhất của vợ chồng trưởng giả Punna, trong một gia đình hiền lương và tôn kính tam bảo. Nhưng không may cho nàng, do bị áp lực từ nhiều giai cấp vọng tộc và uy quyền, Uttarà đành buộc về làm dâu trong một gia đình kẻ ngoại đạo giàu có. Nàng không được người chồng cho phép đến tịnh xá Trúc Lâm nghe pháp, cúng dường tam bảo và tiếp cận các tỳ kheo ni trong chùa. Uttarà buồn bã và âu sầu hơn nữa khi sắp đến mùa An cư kiết hạ mà nàng vẫn bị nhốt trong nhà, và cũng không được nấu các món ăn cúng dường trai tăng. Biết được cuộc sống như ngục tù của con gái, ông trưởng giả Punna mới hiến kế cho Uttarà, bằng cách cho nàng môt số tiền lớn, để nàng mang nàng kỹ nữ Sirimà về nhà cho người chồng gần gũi và do vậy Uttarà được tự do phục vụ tam bảo theo ước nguyện. Đúng như dự đoán của trưởng giả Punna, người chồng của Uttarà mê mẩn ngay khi nàng Sirimà xuất hiện trước cửa nhà, vui vầy hưởng lạc với nàng kỹ nữ, lãng quên người vợ đang hoan hỉ nấu ăn cúng dường cho mùa an cư kiết hạ. Quên mình chỉ là "tình nhân ngãi, non vợ chồng" với người chồng của nàng Uttarà, quên mình chỉ là khách chứ không là chủ nhân trong căn nhà sang trọng nầy, và cũng quên mình chỉ là môt kỹ nữ bán thân chứ không có phẩm hạnh cao quí như nàng Uttarà, nàng Kỹ nữ lại nổi cơn ghen với Uttarà, bằng cách tạt dầu bơ lên đầu nàng Uttarà khi chợt trông thấy người chồng từ lầu cao đứng nhìn xuống người vợ trong nhà bếp và mỉm cười. Thật ra đó chỉ là nụ cười chế nhạo nơi người chồng khi nhìn thấy vết nhọ dính trên mặt Uttarà. Với phẩm hạnh cao quí của một người đã thấm nhuần giáo lý Phật pháp Uttarà đã không giận dữ Sirimà, đồng thời còn can ngăn không để các giai nhân trong nhà hành hung nàng kỹ nữ ghen tương nầy. Chính thái độ khoan dung, độ lượng của bà chủ nhà Uttarà đã khiến nàng kỹ nữ chợt nhận ra thân phân thấp hèn, nhỏ nhoi của mình, nên Sirimà sụp xuống quì lạy, mong được thứ tha cho hành động lỗ mãng đối với Uttarà. Không những tha thứ lỗi lầm của Sirimà, Uttarà còn chỉ dẫn Sirimà đến gặp Đức Thế Tôn để được Ngài giáo hóa, dạy bảo và giải thoát cuộc đời sao cho có tấm lòng từ bi và đức hạnh như nàng. Sau đó Sirimà đến gặp Đức Thế Tôn, được làm lễ quy y ngũ giới và nghe thuyết pháp về Tứ Đế, nên từ đó nàng kỹ nữ Sirimà từ bỏ nghề ô uế và noi gương phẩm hạnh của Uttarà, bố thí, cúng dường tam bảo. Rồi một ngày vị tỳ kheo trẻ mang bình bát đi theo đoàn khất thực đến nhà nàng Sirimà, tuy hiện tại Sirimà không còn trang sức lộng lẫy như một kiều nữ trước đây, nhưng vẫn còn toát ra nét đẹp duyên dáng và mỹ miều, khiến vị tỳ kheo như kẻ mất hồn, lạc lối. Mang bộ mặt thẫn thờ trở về tịnh xá, vị tỳ kheo trẻ ôm mối tương tư nàng Sirimà quá sâu đậm, hằng ngày trốn trong phòng bỏ tất cả công phu sớm tối. Một thời gian ngắn sau nàng Sirimà mang bệnh nặng và từ trần, chứng được quả Dự Lưu. Nhà vua nghe theo lời Đức Thế Tôn, không thiêu xác Sirimà, đặt ở chỗ những xác chết chưa thiêu và cho người canh giữ để các loài diều quạ đừng ăn thịt thi hài Sirimà. Vài ngày sau chờ khi xác thân Sirimà bắt đầu sình lên, dòi bọ bò ra từ chín lỗ và tỏa múi hôi thối, nhà Vua ra lệnh tất cả dân chúng, ngoại trừ trẻ con, phải tụ tập trước thi hài Sirimà. Rồi Đức Thế Tôn cùng tất cả tỳ kheo ni trong tịnh xá Trúc Lâm, dĩ nhiên phải có vị tỳ kheo trẻ, đi đến trước xác thân Sirimà. Nghe lời Đức Thế Tôn, chỉ vào thi hài đang nằm dưới đất, nhà Vua hỏi rằng bất cứ ai muốn chiếm đoạt hình hài Sirimà thì phải trả đúng 1,000 tiền vàng như nàng còn sống. Không một ai lên tiếng, kể cả vị tỳ kheo trẻ đêm ngày tương tư sầu khổ bóng hình Sirimà! Nhà Vua lại hỏi chỉ cần bỏ ra 500 tiền vàng thôi thì được làm chủ Sirimà suốt đời. Vẫn không nghe ai trả lời, nhà Vua xuống giá còn 300 tiền vàng, còn 200, còn 100, rồi xuống thêm còn 10 tiền vàng. Sau cùng nhà Vua biếu tặng không trả một xu nào cho ai muốn chiếm hữu thân xác Sirimà, tất cả mọi người đều im lặng, không thấy ai đứng ra nhận lãnh kỹ nữ tuyệt thế giai nhân Sirimà, kể cả vị tỳ kheo trẻ si tình! Vị Tỳ kheo cố nén lòng không để nước mắt tuôn trào trước bài học về ý nghĩa của sự vô thường, mà Đức Thế Tôn bày ra để răn dạy chúng sanh nói chung và với vị tỳ kheo trẻ nói riêng. Sau đó vị tỳ kheo trẻ trở về tinh tấn tu hành, trì giới nghiêm mật, xả ly mọi dục niệm, để thời gian sau chứng quả vị A La Hán.
 

         Mượn hình ảnh về nàng kỹ nữ Sirimà, vị Hòa Thượng trụ trì nói rằng lý vô thường xảy ra bất chợt đến tất cả mọi người, không ai có thể tiên đoán được chuyện gì sẽ xảy ra. Đức Thế Tôn đã dạy rằng có 3 điều không thể biết trước được, đó là thiên tai, bệnh tật và cái chết. Nhưng theo Hòa Thượng vào thời đại ngày nay còn thêm một điều nhân tai, tức là tai nạn do con người tạo ra, cũng không thể lường trước được nữa. Hòa Thượng nêu lên ba thí dụ để minh chứng cho điều vừa nói.

         - Ngày 1-10-2017 một người đàn ông mắc bệnh tâm thần, từ trên tầng lầu thứ 32 của sòng bài Mandalay Bay, Las Vegas, đã nã súng qua cửa sổ xuống đám đông khoảng hơn 20,000 người đang ngồi xem đại nhạc hội "Route 91 Harvest Festival", làm thiệt mạng 59 người và hơn 500 người bị thương.

         - Ngày 3-1-19 tại thành phố Long An, Việt Nam, do bởi say thuốc phiện, tài xế của một chiếc xe Container to cồng kềnh lao nhanh vào hơn 20 xe máy đang dừng xe tại đèn đỏ, làm chết 4 người và bị thương nặng 25 người.

         - Ngày 3-2-2019 tại thành phố Yorba Linda, California, cả gia đình đang dùng trưa, để sau đó quây quần ngồi xem trận Super Bowl. Bỗng nhiên một chiếc máy bay tư nhân bị trục trặc động cơ, đâm đầu máy bay xuống ngôi nhà, khiến 5 người chết và 2 người bị thương.

     Theo Hòa Thượng còn biết bao nhiêu vụ nhân tai xảy ra mỗi ngày một cách bất ngờ, không thể nào đoán được, khiến mạng sống con người mong manh như bọt nước, như sợi chỉ treo chuông và như một hơi thở. Trong phần kết luận bài pháp thoại Hòa Thượng nói rằng nguyên lý vô thường là một thực thể không thể tránh được. Cuộc sống của chúng ta chịu ảnh hưởng bởi nguyên lý nầy, tức là không có sự vật gì thường hằng và bất biến. Hãy nhìn sắc thân của nàng kỹ nữ Sirimà đã biến đổi, và hãy xem tâm tư của vị tỳ keo trẻ cũng đổi thay! Vì thế vị Hòa Thượng khuyên nhủ các phật tử rằng hãy tinh tấn tu tập giáo lý, nỗ lực làm việc phước đức, bố thí, cúng dường tam bảo, hầu tạo ít vốn công đức mà chống đỡ bệnh tật, thiên tai và nhân tai.

 

Ngày 28 tháng 2, 2019

Phan Minh Hành

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.