Hôm nay,  

ĐỒI XANH

3/27/201913:47:00(View: 7314)

ĐỒI XANH

 

Ngự Thuyết

               

Từ Quận Cam (Orange County) thuộc Nam California lên hướng Bắc để đến những vùng như Bakersfield, Fresno, Monterey, San Jose, Milpitas, Fremont, v.v..., trước hết phải qua những ngọn đèo khá dài  thuộc Quận Los Angeles (Los Angeles County) nằm ven các rặng núi chập chùng.

                Năm nay trời lạnh. Hơn nữa, khác với những năm hạn hán trước, có nhiều cơn mưa vào thời gian giao mùa giữa năm 2018 và năm 2019, cho nên tuyết đổ nhiều. Tuyết phủ kín non cao. Tuyết nằm rải rác trên những đỉnh núi, sườn đồi chạy sát hai bên xa lộ 5, nơi thì trắng xóa một màu, nơi thì chen lẫn  nhiều mảng màu xanh, đen, đậm, nhạt, của cây cỏ, của đất đá. Nhiều nơi trông như da cóc sù sì, như da ểnh ương nhòe nhoẹt rong rêu.

Nhưng khi xe đổ dốc sắp qua khỏi ngọn đèo cuối cùng, một cảnh tượng hết sức lạ lùng bày ra trước mắt.

Sau lưng ta, thế giới cũ, là màu sắc hỗn tạp như vừa nói. Trước mặt ta, dưới kia, dưới thung lũng mênh mông, một màu xanh bao la bất tận trên đó xa lộ 5 trông như sợi chỉ màu đen chạy luồn lách khi ẩn khi hiện. Ta như vừa lạc vào một cõi khác, một chốn bồng lai. Những ngọn đồi xanh uốn mình êm đềm, dịu dàng; những cánh đồng xanh nối tiếp nhau đến tận chân trời.

Bỗng nhớ nhà thơ Nguyễn Bính của thời Tiền Chiến rất tình tứ mà mộc mạc, nhớ non sông đất nước cũ xa tít mù khơi. Nhớ như nhớ chuyện đã xẩy ra từ tiền kiếp - chắc là có tiền kiếp. Hay là như nhớ giấc mơ về một vùng quê xưa mình chưa tới, tha thiết mong tới, và có lẽ không bao giờ tới được, mà nhà thơ, cách đây ngót một thế kỷ, đã mô tả:  

 

                Xanh cây xanh cỏ xanh đồi

                Xanh rừng xanh núi da trời cũng xanh

                Áo chàm cô Mán thanh thanh

                Mắt xanh biêng biếc một mình tương tư

 

                Cỏ đồi ai nhuộm mà xanh

                Áo em ai nhuộm mà anh thấy chàm

                Da trời ai nhuộm mà lam

                Tình ta ai nhuộm ai làm cho phai           

     Nguyễn Bính – Vài Nét Rừng

           Phú Thọ -1938

 

Nay xanh đó có còn? Quê đó có còn?

 

Mùa đông đang muốn giã từ. Mùa xuân lấp ló. Thế nhưng cỏ non xanh đã trùm lên khắp nơi, khắp chốn. Thì phải “Đạp Thanh”, phải bắt chước người xưa , “Xuân du phương thảo địa”. Không thể làm được như chàng Kim Trọng phong lưu thuở nào, áo cũng pha màu cỏ và màu da trời, lỏng buông tay khấu, thoáng thấy người quốc sắc đằng xa vội vàng xuống ngựa lần đi từng bước trên cỏ xanh, chúng tôi, vì đường còn dài quá, đành phải ngồi trên xe hơi, cửa kính hạ xuống, giảm tốc độ, chạy thật êm, vượt qua hàng mấy trăm dặm xanh, mỗi dặm dài hơn một cây số rưỡi. Chúng tôi khởi đi từ sáng sớm.

Cỏ non và cỏ non. Có lẽ không phải chỉ nhờ nhiều trận mưa cỏ mới đua nhau mọc hối hả cùng một lúc, và tưng bừng đến thế. Thử nhớ lại. Trải qua những ngày tháng dài, đồi núi vào mùa Hè, vào mùa Thu, cằn cỗi vì khát nước, bỗng có nhiều trận mưa đổ xuống, cỏ cố vươn mình lên khỏi mặt đất. Nơi này thưa thớt vài đám, nơi kia lún phún mấy vạt. Chậm chạp, uể oải, yếu đuối, ngập ngừng. Rồi sống vất vưởng trong một thời gian ngắn. Và cuối cùng núi đồi trở lại cằn cỗi như xưa.

Nhưng khi Xuân sắp về, thì khác hẳn. Trong lòng đất, cỏ, mầm cỏ, xôn xao, rạo rực, trông ngóng. Chắc hẳn ngoài loại cỏ nhẹ dạ hễ gặp mưa là trỗi dậy, còn có vô vàn mầm cỏ thuỷ chung nhất định nằm yên suốt cả năm trời lắng nghe bước đi của Chúa Xuân. Đấy là loại cỏ gì nhỉ? Cứ gọi đấy là cỏ Chức mỗi năm mong được gặp “Chàng Ngưu” một lần, không phải vào tiết Tháng Bảy mưa Ngâu, mà vào lúc Đông tàn Xuân đến. Lại nhân có thêm mưa móc. Cho nên khi Xuân chưa đến hẳn, cỏ đã sốt ruột ùn ùn rủ nhau nghênh đón.      

Mới 9 giờ sáng, nắng đã lên. Nhưng mọi người trong xe không lấy kính mát ra đeo. Màu xanh mát mắt quá, đeo kính làm chi thêm cản trở. Cứ  mắt trần chủ động nhìn ngắm, và hòa điệu với Thiên Nhiên. E không phải thế, không phải ta chủ động, không phải ta hòa điệu. Thiên Nhiên đang làm chủ, ta bị lôi kéo. Cỏ và nắng đang chuyện trò với nhau, thỉnh thoảng chợt thấy ta, liền ban ơn lên tiếng gọi, Này, mấy người “lưu vong” lơ đãng kia, hãy nhìn chúng tôi đây. Cỏ non rưng rưng mời mọc nắng mới. Nắng mới rưng rưng ôm ấp cỏ non. Cỏ rưng rưng trong nắng rưng rưng. Rưng rưng vì nhớ nhung lâu ngày nay gặp nhau lại. Rất trong sáng, rất tinh khôi, rất hồn nhiên. Nắng reo mừng lên tiếng, cỏ hân hoan cất giọng. Thiên nhiên đang ngẫu hứng hòa tấu bằng vĩ cầm và dương cầm.

Cỏ và nắng trong sáng quá. Ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Đâu phải như trăng với hoa lén lút chờ đêm tối hẹn hò.  

Nắng càng lên, cỏ càng say. Nắng và cỏ càng quấn quýt. Cỏ say nắng ửng vàng, nắng pha màu theo cỏ. Không phải màu da cam, da chanh, cánh bướm, hoa cúc. Hoa cải chăng? Trong vàng có xanh, trong xanh có vàng. Vàng xanh cỏ nắng.

Nhìn lên cao, da trời cũng xanh, xanh cách khác. Xanh lam nhạt. Lác đác nhiều cụm mây trắng nõn như lông ngỗng lặng lẽ trôi nhè nhẹ. Cũng có không ít những cụm mây nặng phơn phớt màu khói đen bên dưới trong khi bên hông, và chắc chắn mặt trên của mây, nắng chiếu sáng ngời. Đấy là những đám mây mưa. Thế là chiều nay, khuya nay, hay ngày mai lại có mưa nữa. Mưa tiếp sức cho màu xanh. Sẽ xanh lâu. Dăm ba cánh chim bay phân vân, ngại ngùng, lạc điệu, những con chim không chịu bay về phương Nam tránh rét, hay là không đủ sức bay xa, đành ở lại.  

Trên những mảnh đất hoang nằm rải rác hai bên xa lộ, cũng một màu cỏ xanh được điểm xuyết bằng nhiều vũng nước mưa đọng chưa kịp ngấm xuống hết. Xa hơn, con sông, con suối, mặt hồ, óng ánh như những tấm gương khổng lồ màu xanh lam nhạt. Vâng, sông, hồ, suối cùng màu với da trời. Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều:

 

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

                 

Hai câu thơ sau trong bài Thu Rừng của Huy Cận cũng nói lên hình tượng đó:

 

                Sắc trời trôi nhạt dưới khe

                Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng

 

Trời vốn kín đáo, không chịu loã lồ, không để lộ xương, máu, lòng, dạ cho nhân gian thấy. Cho nên người khó biết ý trời. Trời chỉ cho thấy da. Da trời thường màu xanh lam khi không có mưa gió bão bùng, thì con sông, dòng suối, mặt hồ cũng mang màu xanh lam ấy. Và gặp những hôm mưa bụi bay bay xóa nhòa trời đất, giọt mưa thánh thót, dòng sông lại trắng một màu:

 

                Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa

                Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ

                Xanh om cổ thụ tròn xoe tán

                Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ

                      Hồ Xuân Hương – Cảnh Thu

 

Và cũng có những dòng sông đen, những đêm không trăng không sao, nhà thơ ảo não của chúng ta trăn trở:

 

tôi buồn chết như buồn ngủ

dù tôi đang đứng bên bờ sông

nước đen sâu thao thức

Thanh Tâm Tuyền – Phục Sinh        

 

Càng tiến về hướng Bắc để đi đến những vùng như San Jose, Milpitas, Fremont, chúng tôi càng bị choáng ngợp bởi màu xanh mỗi lúc một tươi thắm và liền lạc không còn một chỗ trống. Thiên nhiên mặc áo mới, chiếc áo nhung xanh lành lặn, dày dặn, kín đáo.

Nhưng kìa, có lẽ tôi nhầm chăng, những gì đấy? Những điểm nâu, rồi những chấm trắng, vừa hiện lên trên sườn đồi thoai thoải. Thôi, thế là chiếc áo nhung đã có chỗ rách? Nhìn kỹ, những điểm, những chấm ấy đang di động chậm chạp từ bên kia ngọn đồi lũ lượt tràn qua bên này. Thì ra bò, cừu đang gặm cỏ. Lác đác, những vạt màu xanh đậm của vòm cây và những chòm lá gồi vươn lên cao lấp lánh soi gương trong nắng mới. Rải rác dăm ba vườn lê đang trổ bông trắng man mác như nỗi nhớ đuổi theo mãi bánh xe lăn. Và xa xa in hình màu trắng rực rỡ của những dãy núi  tuyết phủ làm thành đường chân trời.

Xe chạy miên man trên xa lộ như thế đã hơn 5 tiếng đồng hồ. Đồi núi xoay vần. Lại nhớ Nguyễn Du, với tiết tháng ba Thanh Minh, và hội Đạp Thanh. Yêu thiên nhiên, chị em nàng Kiều thong thả dắt tay nhau “bộ hành du xuân”. Kim Trọng không tha thiết bằng, “lỏng buông tay khấu”, cưỡi ngựa ngắm hoa. Cố nhiên vừa thoáng thấy giai nhân đằng xa, chàng đã vội vàng xuống ngựa. Trong khi đó, chúng tôi  quá cẩu thả. Phải xuống xe chứ!

Xe đang chạy qua vùng Milpitas. Nghe nói vùng này có Đền Thiên Long Sơn (The Dragon Mountain Thiên Long Sơn) nổi tiếng đẹp. Chúng tôi quyết định đến đó xuống xe thăm trước khi tiếp tục lên đường đi Fremont .

Gọi là Đền Thiên Long Sơn vì đây không phải là chùa Phật giáo, hay nhà thờ Công Giáo, Tin Lành, hay tu viện, mà là một Trung tâm Văn Hóa, Tâm Linh, Đa Tôn Giáo, do một cặp vợ chồng triệu phú người Việt khởi công xây dựng cách đây khoảng 5 năm. Công trình này đang tiếp tục phát triển. Xây thêm đền miếu, phóng thêm những con đường lên nhiều ngọn đồi.

Có nhiều bức tượng đúc bằng đá quý, gỗ quý. Tượng Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm, Đức Mẹ. Khu Phật Giáo, khu Thiên Chúa Giáo, khu dành cho những danh nhân Việt Nam như Đức Thánh Trần, Vua Trần Nhân Tông, Bà Chúa Liễu Hạnh, Tả quân Lê Văn Duyệt v.v... Có những phòng ốc tĩnh lặng để thiền định, cầu nguyện. Mỗi Chủ Nhật, cơm chay miễn phí.

Đường lên Đền rất đẹp len qua những đồi dốc san sát. Đến khu đền thứ nhất gặp ngay chỗ đậu xe miễn phí nằm trên một khoảnh sân khá rộng tiếp giáp với mặt tiền của một ngôi miếu. Đằng trước miếu là mấy cột cờ, cờ Mỹ, cờ Việt Nam Cộng Hoà, cờ của Đền, cờ California. Từ đấy có thể đi lên một ngọn đồi khá cao theo những đường bậc cấp bằng xi-măng uốn mình ngoằn ngoèo. Chạy theo song song là lan can lưới có tay vịn, người leo đồi khỏi sợ bị té ngã xuống những vực sâu.

Tôi phân vân. Chân tôi yếu. Có dám chống gậy lên đỉnh đồi gần nhất hay không. Tôi thầm nghĩ nếu không lên nổi đến đỉnh thì cũng có thể ngồi lại nghỉ chân tại bất cứ nơi nào trên những con dốc dài này. Rồi đi tiếp, hoặc quay trở lại xuống chân đồi, tuỳ sức khỏe cho phép. Lại nữa, những cơn gió mát rười rượi và nắng rải mênh mông nghe như lời thúc giục. Thế là tôi chống gậy bước đi. Trên đường bằng phẳng, tôi có thể không cần gậy.  

Trước hết tôi được nhìn gần, cỏ xanh ngay dưới chân. Đạp thanh! Giẫm lên cỏ xanh! Tôi nhìn kỹ chiếc áo nhung xanh của Mẹ Thiên Nhiên. Vâng, nhìn gần vẫn thấy chiếc áo rất lành lặn. Cỏ non xanh mọc dày san sát. Nắng ấm chan hòa. Thơm ngát.

Dù chống gậy trèo lên khá vất vả, tôi cũng cố đếm xem có bao nhiêu bậc cấp. Nhưng xa quá, cao quá, nhiều bậc cấp quá, và mệt quá. Cuối cùng không đếm xuể. Lẽ dĩ nhiên tôi phải ngồi nghỉ chân nhiều lần mỗi khi vượt qua được mấy mươi bậc cấp. Có mấy người trẻ tuổi cũng gậy như tôi, nhưng là loại gậy cao quá đầu mà người chuyên leo núi cần đến. Họ đi phăng phăng, thấy mà thèm. Một người bạn học tập kết đi theo “bên kia” sau này gặp lại gọi đấy là loại “gậy Trường Sơn”, có nó tha hồ trèo đèo vượt suối.

Tôi biết trước trở xuống chân đồi sẽ không phải là chuyện đơn giản. Khó khăn và nguy hiểm hơn nhiều. Nhưng đã đi thì ráng đi cho tới nơi.

Lên đến đỉnh đồi, tự lượng sức không thể tiếp tục trèo lên những ngọn đồi khác như nhiều khách hành hương, tôi ngồi nghỉ trên một chiếc ghế đá cạnh cái miếu nhỏ, nhìn quanh. Đồi xanh chập chùng không biết là bao nhiêu ngọn, những thung lũng xanh tỏa rộng thênh thang. Làm so sánh thiên nhiên, cảnh vật, đồi núi, thung lũng nơi quê cũ, tất cả đều thu nhỏ.

Chùa chiền xứ ta trước kia - không kể những ngôi chùa chen chúc nơi đô thị náo nhiệt - cũng thế, nhỏ nhắn, khiêm tốn, thân thương. Ngôi chùa thường nép mình bên một sườn đồi xinh xinh, hay ẩn nấp trong một thung lũng con con, hay lẫn khuất trong một làng quê nho nhỏ. Có cây tùng, cây bách án ngữ, hay cây bồ đề, cây đa rợp bóng, hay cây đại, cây sứ xúm xít, hay lũy tre già bao bọc đu đưa trong gió. Ai đã từng ở Huế hẳn còn nhớ nhiều ngôi chùa thật đẹp. Chùa Từ Hiếu nằm gọn trong lòng một thung lũng be bé lẫn trong rừng thông và cây cối um tùm; chùa Trà Am thấp thoáng trong khóm trúc lóng đen, tre cán giáo lóng vàng, bên dòng suối nhỏ lòng nghiêng róc rách; chùa Tường Vân đứng trầm tư mặc tưởng trên một ngọn đồi thon thả, từ đó nhìn xuống một thung lũng nhỏ hơn nữa thấy ẩn hiện mái chùa Sư Nữ im lìm đang tham thiền nhập định. Và còn nhiều ngôi chùa đẹp khác. Đấy không phải khung cảnh của trần thế. Tiên cảnh.

Nhưng bây giờ mọi thứ đều thay đổi nhiều, từ thái cực này qua thái cực khác. Nhiều ngôi chùa “khủng” mọc lên tại nhiều nơi ở hải ngoại, và nhất là ở trong nước.  

Dưới xa tít tắp, mấy chiếc hồ xanh biếc in bóng núi đồi. Không gian bao la, vô cùng vô tận. Cái bao la khiến “một chiếc linh hồn nhỏ” (Huy Cận) hụt hẫng, choáng ngợp. Quen ngồi trong xe kín bưng, an toàn, chạy vùn vụt qua nhiều quãng đường dài nhìn trời cao đất rộng. Nay dừng lại, xuống xe “lần bước dặm xanh”, có cảm tưởng như con ếch rời khỏi đáy giếng thảng thốt vì khoảng trống mênh mông.

 

Chùa xưa ở quê cũ tịch lặng, nhưng gần gũi, êm đềm. Ngôi Đền này lại càng tịch lặng, nhưng càng xa vắng. Nơi đây khiến tôi nghĩ đến cái bao la của Đất Nước này, một lục địa nằm giữa hai Đại Dương của Địa Cầu. Con người vốn ghê sợ cái nghiệt ngã của Thời Gian, và cũng e ngại cái trống trải của Không Gian. Quen sống nơi quê cũ, nay không khỏi nhiều lúc cảm thấy lạc lõng nơi quê mới.

Lạc lõng? Tôi chợt nghĩ đến bốn chữ “Thế hệ lạc lõng”? Bốn chữ đó thường dùng để chỉ một lớp người sống giữa hai Thế Chiến I và II, đặc biệt là những nhà văn, nhà thơ người Mỹ có tiếng như Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald, Sinclair Lewis, T. S. Eliot … Họ được mệnh danh là “Thế Hệ Lạc Lõng” (The Lost Generation). Lạc lõng, theo một số nhận định, vì vỡ mộng và tuyệt vọng sau khi trải qua một cuộc chiến tàn khốc đã giết chết mấy chục triệu người, vì những chuẩn mực đạo đức, trong sáng, ngây thơ, thơ mộng của nếp sống cũ không còn nữa, vì bơ vơ trước một tương lai vô định. Họ đã qua châu Âu, Paris, sinh sống một thời gian, càng lạc lõng hơn. Rồi đi lang bạt nhiều nơi khác trước khi quay về quê hương cũ.

Ta thì sao? Cũng là nạn nhân của một cuộc chiến còn khủng khiếp hơn, dai dẳng hơn. Lại mất tất cả, mất luôn cả quê hương, không có ngày về. Phải lưu vong, phải tới những nơi xa lạ -- khuôn mặt khác, tiếng nói khác, nếp sống khác, phong tục khác, suy nghĩ khác. Vậy nếu thế hệ chúng ta không tìm thấy sự an vui, cái yên ổn trong tâm hồn, không phải tại vì ta ưa làm dáng, ta thích bi thảm hóa. Cũng không phải chỉ vì cái không gian bao la của xứ này mà thôi.

Tôi đứng lên. Nhìn xuống dưới xa. Rồi lại ngồi. Con đường xuống đồi quanh co và dài quá. Chân yếu, đi xuống khó hơn đi lên, dễ bị ngã qụy. Mấy người đồng hành cùng tôi lên ngọn đồi này đều đã bươn bươn đi qua ngọn đồi khác theo những con đường mòn chưa xây bậc cấp. Và có thể họ theo lối khác xuống đồi. Không khéo chỉ còn một mình tôi trên ngọn đỉnh này. Tôi đâm lo, thử lần từng bước đi xuống. Chỉ qua ba bậc tam cấp, tôi biết tôi không thể bước thêm nữa. Cái mệt nhọc do ráng sức trèo lên mấy trăm bậc cấp còn đè nặng. Đành đứng lại, ngao ngán. Thì hai bàn tay đằng sau luồn vào nách của tôi và nâng tôi lên. A, đứa con gái của tôi. Nó không đi với mấy người kia, đứng khuất sau cái miếu nhỏ tôi không thấy, và đến dìu tôi đi từng bước một. Đi, nghỉ, nhiều lần, rồi cũng tới nơi. Tôi lên xe ngay, điều chỉnh ghế, và ngã lưng nằm dài.

*

Xe trở lại lối cũ chạy xuống con đường ngoằn ngoèo. Rồi vào xa lộ. Tôi có cảm tưởng như vừa chui vào cái mai rùa, chật chội mà chắc chắn và an toàn. Những ngọn đồi ngoài kia vẫn tiếp tục chạy theo từng đoạn, uốn mình nhịp nhàng, êm ái. Cỏ trùm lên đồi trông xanh hơn, mịn màng hơn. Nắng ngoài kia có vẻ vuốt ve hơn. Cái hụt hẫng trước không gian giảm đi nhiều khi tôi ngồi trong xe.

Xin giã từ Thiên Long Sơn. Xin giã từ đồi cao, lũng sâu. Đầu óc tôi đang muốn quay về với những ngôi chùa nhỏ êm êm tiếng chuông tiếng mõ; những giáo đường văng vẳng tiếng cầu kinh; những thánh thất, am miếu âm u nhang khói; những ngôi làng xa âm thầm lặng lẽ; những núi, những đồi, những sông, những biển mơ màng; những phố phường nhộn nhịp, đông vui; những khuôn mặt, những lời nói thân quen, quyến luyến. Mọi thứ đang lên tiếng gọi kẻ đi xa.

Tôi lại nghĩ đến những người dù chán ghét chế độ hiện hữu tại quê nhà vẫn muốn quay về tìm chút “hương xưa” khi tuổi đã cao, khi con cái đã thành đạt để tự trấn an làm xong nhiệm vụ, khi cảm thấy mình là chiếc lá sắp rụng, thì rụng về cội hơn là để gió cuốn đi lang bạt.

Nhưng dễ gì tìm lại được cảnh cũ, người xưa. Người Tàu có câu: “Cứ 30 năm biển lớn biến thành ruộng dâu, và ruộng dâu biến thành biển lớn.” Nhanh thế sao. Dù không nhanh chóng như cái lối nói cường điệu ấy, người ta cũng “không thể tắm hai lần trên một dòng nước”. Nhiều người trở về ngỡ ngàng, hụt hẫng trước những biến thái ghê gớm. Ngoại cảnh không còn như xưa nữa đã đành, tâm cảnh cũng đổi khác. Lại ra đi. Rồi buồn bã có khi lại quay về. Cứ thế, cứ thế.

Cứ như trong một chuyện thiếu nhi của người Anh, cố nhiên sự so sánh có phần khập khiễng,  dùng để minh họa chữ “Dilemma”. Có hai chàng trẻ tuổi lạc bước vào một khu rừng. Hai chàng vừa tung tăng đi một quãng ngắn thì một con sư tử to lớn xuất hiện. Họ hoảng hốt vùng chạy. May gặp một cây cao, một chàng trèo nhanh lên thoát nạn. Cũng còn may, chàng kia chợt thấy cái hang nhỏ gần đấy, liền lao xuống trốn. Chỉ một khoảnh khắc ngắn, anh ta lại thò đầu lên miệng hang. Thì gặp ngay con sư tử đang liếm mép ngồi chờ. Chàng vội vàng thun người tụt nhanh xuống hang. Cái hành động quái lạ đó lặp đi lặp lại nhiều lần. Chàng ở trên cao thấy thế sốt ruột la lớn:

“Này, này, đừng điên khùng như vậy. Đừng thò đầu ra nữa, chết ngay bây giờ. Hãy kiên nhẫn. Hãy chờ con sư tử nản lòng bỏ đi. Tao canh chừng cho. Tao hô to một tiếng, thì mày mới được chui ra. Nhé, nhé.”

Chàng kia nghẹn ngào:

“Nhưng trong hang có một con gấu!”

Hoặc cũng có người cảm thấy mọi chuyện đều quá muộn màng đành miễn cưỡng kéo lê những ngày còn lại của đời mình tại một trong hai nơi, thay vì đi đi về về như thoi đưa.

 

Xe tiếp tục chạy trên đường dài, vượt qua nhiều đồi núi. Trí óc của tôi không còn yên ổn như trước khi ghé Thiên Long Sơn, không còn mơ tưởng gì đến màu trắng như tuyết cuả con ngựa chàng cưỡi, màu xanh như cỏ, như da trời của chiếc áo chàng mặc, chàng Kim Trọng. Nghĩ quẩn nghĩ quanh. Những ý nghĩ rối rắm lại đưa tôi trở lại với Hemingway, nhưng không phải một Hemingway lạc lõng, mà Hemingway tác giả cuốn Những Đồi Xanh của Châu Phi (Green Hills of Africa). Trong tác phẩm này, ở nhiều đoạn, Hemingway cố dò hỏi lòng mình, cố tìm tòi những mạch ngầm bạo liệt, và cái đẹp, cái vinh quang của châu Phi hoang dại mà ông say đắm; cái cám dỗ ghê gớm, man rợ của thú săn bắn, giết chóc, nhất là khi giết được những con thú lớn như sư tử, tê giác. Và đồng thời nhà văn nổi tiếng này lo ngại một ngày nào đó không xa, Lục Địa Đen tuyệt vời này sẽ bị tiêu vong vì sự xâm nhập của con người.  

Phải chăng, với tư thế một du khách, một nhà săn bắn, một nhà câu cá, ưa cảm giác mạnh, Hemingway đã phát biểu như trên? Nhưng nếu ông là thổ dân ở đấy, hay khi đến châu Phi thấy thích quá bèn xin làm dân nhập cư, lưu dân, rồi nhập tịch vào một sắc dân bản xứ để có thể vĩnh viễn sống nơi đó, liệu những trầm tư, những dò hỏi lòng mình như trên có còn nguyên vẹn? Hay là Hemingway lại có thể bận tâm đến cuộc sống bán khai cơ cực của người bản xứ thay vì đi tìm cái mạch ngầm mang nặng tính lãng mạn?

Lại liên tưởng đến những sườn đồi, sườn núi vùng Lai Châu, Lào Cai biến thành những mảnh ruộng nấc thang nghiêng nghiêng, xanh thẳm, dưới bầu trời lồng lộng màu xanh lam mà các du khách, các nhiếp ảnh gia ca tụng như những bức tranh thiên nhiên tuyệt tác trời dành riêng cho dân bản xứ. Có lẽ đồng bào thiểu số nghèo đói sở hữu chủ của những “bức tranh thiên nhiên tuyệt tác” không hài lòng với nhận xét ấy. Vì không được may mắn có những cánh đồng bằng phẳng, màu mỡ như những vùng châu thổ để canh tác, họ đành phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” cào xới núi đồi sỏi đá làm thành những dải đất trồng trọt chật hẹp, cheo leo, cằn cỗi mong tìm chút dưỡng chất còn sót của trần gian đầy gian khổ này. Chẳng hay họ có còn hơi sức hay không để tung hô, tán tụng như những nhà nhiếp ảnh.

Chiếc xe vẫn chạy bon bon. Núi đồi vẫn nối tiếp nhau, lúc thì kéo dài như thân hình con rắn lục khổng lồ, lúc thì sưng lên thành những “vú đồi” tròn trịa, trong khi nắng mới và cỏ non say sưa chuyện trò với nhau, môi mấp máy, mắt long lanh. Vang vang. Nắng reo, nắng dậy. Cỏ rạt rào. Nắng là tiếng đàn vỹ cầm lả lướt uốn éo như dãi lụa mềm mại. Cỏ là vô vàn nốt nhạc dương cầm nhảy nhót du dương thánh thót.      

Tôi thử dò lại lòng mình, tìm “mạch ngầm” của những ngọn đồi cỏ non trong nắng mới. Không tìm được gì. Nắng và cỏ chuyện trò với nhau không chút quan tâm đến chúng tôi. Hay nói cách khác, tôi bị xem như người ngoại cuộc. Hay nói cách khác nữa, giữa chúng tôi và trời đất bao la này chưa có sự hoà điệu. Tôi nghĩ đến màu xanh Nguyễn Bính nơi quê cũ, Xanh cây xanh cỏ xanh đồi. Màu xanh đó phai nhạt dần, dù là màu của hoài niệm nằm sâu trong tâm khảm. Và tôi nghĩ thêm nếu tôi là một du khách chỉ đến đây một thời gian rồi ra đi, như Hemingway đến châu Phi cùng rượu mạnh và người đẹp giết dăm ba con thú lớn rồi trở về Mỹ, thì cỏ và nắng sẽ dễ dàng cho phép tôi tham dự chuyện trò. Xong ai về nhà nấy, không lưu luyến nhau, không quấy rầy nhau, không duyên nợ nhau. Có khi chỉ một thời gian ngắn, quên hẳn nhau. Nhưng tôi không là du khách. Tôi bỏ quê cũ, đi mãi. Đến đây, sống mãi. Sống nhờ. Và đứng bên lề cuộc đời.

Tôi thích du lịch. Nhờ sự giàu có của đất nước này, với đồng lương khiêm tốn theo tiêu chuẩn Mỹ, tôi có dịp đi khá nhiều nơi trên thế giới. Đến đâu cũng thấy lòng thoải mái, hân hoan. Và vô tư thưởng ngoạn cảnh đẹp lúc huy hoàng lộng lẫy, khi êm ái dịu dàng. Và say mê chiêm ngưỡng những di tích qúy hiếm của những thời xa xưa còn sót lại. Rồi giã từ không chút bịn rịn. Nhưng mỗi lần trở về quê hương thứ hai này là mỗi lần thấy băn khoăn, bồi hồi. Vui buồn lẫn lộn. Cảm thấy ấm lòng trở lại chốn cũ, đồng thời cũng cảm thấy có vấn đề. Đó là có chăng sự hòa điệu, sự hội nhập? Hòa điệu là con đường giao lưu hai chiều. Con đường đó dường như chưa suôn sẻ. Đối với những nước tôi đến thăm, tôi là du khách, sự hòa điệu không cần thiết được đặt ra. Có cũng tốt, không thì thôi. Nhưng đối với quê hương thứ hai của tôi, vấn đề không đơn giản.    

Nay tôi đang tập tểnh muốn làm người bản xứ. Được chấp nhận chưa? Hòa điệu chưa? Hội nhập chưa? Tôi đã tìm được việc làm, nghĩa là có chút đóng góp. Không là bao, nhưng cũng hội đủ điều kiện để về hưu và hưởng mọi thứ quyền lợi dành cho công dân xứ này cho đến cuối đời. Điều đó làm tôi áy náy, nhiều khi tự cảm thấy mình là một loại ký sinh trùng. Nhưng đấy mới chỉ là sự kiện xứ sở này chấp nhận tôi như một con số trong hàng triệu con số, một kẻ vô danh trong hàng triệu kẻ vô danh. Còn có nhiều thứ lấn cấn khác không phải chỉ bắt nguồn từ đất nước bao la và bao dung này, mà cả từ bản thân tôi, một cá nhân nhỏ bé, yếu kém, vô giá trị. Thì hãy khoan, hãy đừng sấn sổ, vồ vập. Hãy dành một khoảng cách về thời gian để cho mọi chuyện lắng xuống, nguôi ngoai. Họa chăng sự hội nhập nào đó dù chưa đến với tôi, thuộc thế hệ Việt Nam lưu vong thứ nhất, sẽ đến với mấy đứa con của tôi. Hay, có trễ đi nữa, con của con tôi.  

Hãy để nắng và cỏ chuyện trò với nhau trên những đồi xanh.

                                                                     2/2019     

 

                    

  

                       

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.