Hôm nay,  

CHUYỆN TRẦU CAU

17/04/201910:00:00(Xem: 6513)

CHUYỆN TRẦU CAU
 

(Trình bày trong Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương

Tại Mississauga ngày 14-4-2019)

 

Trần Gia Phụng

 

Chuyện trầu cau là một cổ tích thời thượng cổ, rất quen thuộc với người Việt, được kể đi kể lại nhiều lần, có nhiều dị bản khác nhau, nên tốt nhứt là ôn lại chuyện trầu cau qua lời thuật đầu tiên trong sách Lĩnh Nam chích quái xuất hiện vào thế kỷ 15.

 

Lĩnh Nam chích quái là sách góp nhặt những chuyện quái đản ở vùng đất phía nam núi Ngũ Lĩnh, ý chỉ vùng cổ Việt.  Sách do một tác giả khuyết danh, hay có thể do Trần Thế Pháp soạn. (Không rõ năm sinh và năm mất của Trần Thế Pháp, chỉ biết ông là một quan chức trong tàng thư các.)  Sau đó, sách được Vũ Quỳnh (tiến sĩ Nho học năm 1478) và Kiều Phú (tiến sĩ Nho học năm 1475) hiệu chính. Sách tập hợp một số truyện cổ tích thần tiên của nước ta về đời Hùng Vương, như chuyện Bạch trĩ (trĩ trắng), Kim quy (rùa vàng), Tân lang (cau), Tây qua (quả dưa hấu)... Trước hết, xin lược truyện sự tích trầu cau

 

SỰ TÍCH CHUYỆN TRẦU CAU

 

Theo Lĩnh Nam chích quái, thời thượng cổ có hai anh em họ Cao là Cao Tân và Cao Lang rất giống nhau và rất thương yêu nhau.  Khoảng năm 17 và 18 tuổi, cha mẹ từ trần, hai anh em đến theo học đạo sĩ Lưu Huyền.  Đạo sĩ có người con gái khoảng cùng tuổi tên Liên.  Hai anh em đều thầm yêu cô Liên, muốn cưới làm vợ.  Cô gái biết được Cao Tân là anh, nên kết duyên cùng Cao Tân.   

 

Hai vợ chồng sống rất đầm ấm và hạnh phúc, nhưng người em là Cao Lang cảm thấy buồn rầu nên bỏ nhà ra đi, và qua đời bên một dòng suối sâu, hóa thành một cây cao (nhứt trụ kình thiên = một trụ chống trời).  Cao Tân ở nhà, thấy em ra đi lâu ngày, liền đi tìm và cuối cùng thất vọng, gieo mình chết bên dòng suối, hóa thành phiến đá.  Vợ Cao Tân đi tìm chồng, đến dòng sông, cũng buồn quá, gieo mình ôm lấy phiến đá mà chết, biến thành một dây leo quanh phiến đá. Ông bà họ Lưu đi tìm, tới đây quá đau xót, lập miếu thờ.

 

Về sau, một hôm vua Hùng đi tuần tra, dừng chân nghỉ mát ở trước miếu, thấy cây xanh lá tốt mọc bên khối đá, liền hỏi thăm người địa phương, mới biết được sự tích.  Nhà vua sai lấy trái cây, ăn chung với lá quấn quanh phiến đá, nhổ bọt lên phiến đá, thấy có màu sắc đỏ, mùi vị thơm tho.  Nhà vua sai nung đá thành vôi, ăn chung cùng trái cây và lá dây leo, mùi vị thơm ngon, môi đỏ, má hồng, biết là cây quý, liền mang về sử dụng.  Nước ta có tục ăn trầu cau từ đó. (Vũ Quỳnh – Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, Hà Nội, Nxb. Văn Học, 1990, tt. 54-55.)

 

Chuyện trầu cau do Lĩnh Nam chích quái kể lại có bốn yếu tố đáng chú ý: 1) Thời tính câu chuyện. 2) Nhân vật trong chuyện. 3) Cây trái trong chuyện. 4) Tập tục ăn trầu.

 

THỜI TÍNH CÂU CHUYỆN

 

Chuyện trầu cau là cổ tích thời thượng cổ nước Việt, nhưng được kể lại lần đầu (sớm nhứt) trong sách Linh Nam chích quái, được viết năm nào thì không rõ, mà chỉ biết hai tác giả hiệu chính là Vũ Quỳnh và Kiều Phú thời vua Lê Thánh Tông, (trị vì 1460-1497).  Như thế, câu chuyện thời thượng cổ được truyền miệng và được kể lại lần đầu vào thế kỷ 15.

 

Cần chú ý thời thượng cổ, xã hội cổ Việt giống như các xã hội thượng cổ khác trên thế giới, là xã hội mẫu hệ (matriarchy), trong khi câu chuyện được hiệu chính vào thế kỷ 15 là thời Nho giáo phát triển ở nước ta, theo xã hội phụ hệ (patriarchy).  Hai xã hội nầy khác nhau ở điểm:  Một bên là mẫu hệ, người vợ làm chủ gia đình, có nhiều ưu quyền rộng rãi, có thể có nhiều chồng, và một bên là phụ hệ, ngược lại với mẫu hệ, người chồng làm chủ gia đình, có thể có nhiều vợ.

 

Sống trong thời đại Nho giáo thịnh trị, các tác giả đã hiệu chính câu chuyện cổ tích tình cảm lãng mạn trầu cau thời thượng cổ theo lăng kính Nho giáo, luân lý Nho giáo, anh em thương yêu và kính trọng nhau, tình cảm người em đối với chị dâu được giữ đúng khuôn phép, người vợ chung thủy với chồng… Tất cả đều đúng theo mẫu mực Nho gia.

 

NHÂN VẬT TRONG CHUYỆN

 

Chuyện trầu cau gồm ba nhân vật chính là hai anh em họ Cao và cô gái họ Lưu.  Câu chuyện xảy ra thời thượng cổ, đã được trình bày lại trong thời đại Nho giáo.  Nếu câu chuyện đơn giản là người anh lập gia đình và gia đình người anh đầm ấm hạnh phúc, thì tại sao người em lại buồn rầu đến nỗi bỏ nhà ra đi?  Phải chăng đây là chuyện tình tay ba giữa một người đàn bà và hai người đàn ông?  Nếu chuyện tình tay ba, một bà hai ông thì thì trái với luân lý Nho giáo, nên cần phải hiệu chính cho hợp với luân lý Nho giáo.  Ngoài ra, câu chuyện nầy có thể còn có những uẩn khúc tình cảm không được sách Lịch nam chích quái viết lại.   

 

Vì vậy, một câu hỏi có thể đặt ra là chuyện trầu cau xuất hiện từ thời thượng cổ là lúc xã hội cổ Việt còn là xã hội mẫu hệ, người phụ nữ có quyền có nhiều chồng, nên phải chăng mới có chuyện một bà hai ông, và phải chăng người em thiệt thòi trong tình cảm, ít được yêu thương hơn, nên buồn rầu bỏ nhà ra đi?

 

Trong dân gian Việt Nam có chuyện “Ông Táo” cũng gồm một bà hai ông.  Có tài liệu cho rằng đây là cổ tích ba vị thần Thổ công , Thổ địa, Thổ kỳ (Thần nhà, Thần đất, Thần bếp) của Trung Hoa, được Việt Nam hóa thành sự tích "một bà hai ông". 

 

Giả thiết chuyện “Ông Táo” là cổ tích ba người đàn ông Tàu (chỉ giả thiết mà thôi), nhưng tại sao khi chuyển qua cổ tích Việt (Việt hóa) thì lại biến thành một bà hai ông?  Một bà hai ông chính là hình ảnh mẫu hệ của xã hội cổ Việt.  Đặc biệt là vì chuyện một bà hai ông trái với luân lý phụ hệ Nho giáo, nên không có sách vở Nho gia hoặc tác giả cung đình nào viết lại, và cổ tích “Ông táo” chỉ được dân chúng truyền miệng mà thôi

 

Trong lịch sử có hai trường hợp được ghi nhận có thể là vết tích của xã hội mẫu hệ ở nước ta là Hai Bà Trưng và bà Triệu.  Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40, có một dàn tướng lãnh vây quanh toàn là phụ nữ.  Tại sao chỉ có nữ tướng mà không có nam tướng?  Còn Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh khởi nghĩa cùng anh là Triệu Quốc Đạt năm 248, nhưng bà Triệu là người chỉ huy chứ không phải là Triệu Quốc Đạt.  Điểm đặc biệt là hai bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ 15) và Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thế kỷ 19) thời Nho giáo, viết chuyện Triệu Thị Trinh mà không đề cập đến Triệu Quốc Đạt.  Phải chăng vì các sử gia Nho giáo cho rằng anh trai sao lại dưới sự chỉ huy của em gái, nên không nhắc đến Triệu Quốc Đạt.  Sử gia Trần Trọng Kim thời tân học dựa vào các tài liệu khác để viết thêm chi tiết về Triệu Quốc Đạt.

 

Tuy nhiên, đây chỉ là những nghi vấn, cũng như chuyện trầu cau cũng chỉ là nghi vấn về bóng dáng một xã hội mẫu hệ thời xa xưa.  Chỉ khi nào tìm ra được những tài liệu cụ thể mới có thể có kết luận về những nghi vấn đặt ra trên đây mà thôi.

 

CÂY TRÁI TRONG CHUYỆN

 

Cây cau và dây trầu là cây trái chính trong chuyện.  Trầu cau có thể nói là hai loại cây song sinh rất phổ thông ở nước ta.  Ngoài Việt Nam, trầu cau được trồng nhiều ở Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, nam Ấn Độ, Tích Lan (Sri Lanka). Trầu cau cũng có mặt ở các nước miền đông Phi Châu. (Encyclopaedia Britannica, mục "betel", và World Book Millennium, vần B, tập 2, nxb. World Book, Inc., Chicago, 2000, mục "betel".)

 

Nói chung, trầu cau có mặt ở các nước nằm tại vùng nhiệt đới ẩm, giữa xích đạo và hạ chí tuyến (tức từ vĩ tuyến 0 độ đến 23,27 độ bắc).  Ở những nước nầy cũng có tập tục ăn trầu cau.  Vì vậy ở Toronto (Canada), xứ đa văn hóa, chúng ta gặp nhiều người Indonesian, Mã Lai, Ấn Độ … ăn trầu.

 

Đặc biệt càng về phía nam, nghĩa là càng nắng nóng và mưa nhiều, thì trầu cau càng ngon và càng phong phú, nên ở Việt Nam, nhiều người thường buôn trầu cau từ miền nam ra miền bắc.  Ở miền Nam, vùng trầu cau nổi tiếng nhất là 18 thôn vườn trầu ở Gia Định.

 

Trong tiếng Việt, chữ "trầu" chúng ta nói và viết ngày nay xuất xứ từ chữ "b'lâu" trong tiếng Việt cổ.  Còn chữ "cau", trong tiếng Mường cũng gọi là “cau”, trong tiếng Mon thì gọi là “p-kau” (Nguyễn Hy Vọng, Từ điển nguồn gốc tiếng Việt, California: Nxb. Đất Việt, quyển I, 2012, tr.69.)  Chúng ta còn gọi bẹ cau là mo nang.  Trong tiếng Mường “nang” = cau; còn trong tiếng Rhade, “m-nang” = cau. (Nguyễn Hy Vọng, sđd. tr. 1147.)  Bẹ cau hay mo nang tức mo cau ở nông thôn thường dùng làm quạt. (Thằng Bờm có cái quạt mo...) 

 

Một người Trung Hoa đã từng du lịch cổ Việt vào thế kỷ thứ 6, tên là Lịch Đạo Nguyên, tác giả sách Thuỷ kinh chú, cho rằng ở nước ta chỉ có cây cau là đáng xem hơn cả. (Nguyễn Ngọc Chương, Trầu cau Việt điện thư, Nxb. TpHCM, 1997, tr. 35.)

 

Tại sao giữa rừng cây lá cổ Việt, đối với người Tàu, chỉ có cây cau là đáng xem?  Phải chăng vì hình dáng phương phi mỹ miều: "Đầu rồng, đuôi phụng le te, / Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con" (Ca dao).  Thật ra, lý do đơn giản mà người Tàu ca tụng cây cau có thể vì Trung Hoa cũng như các nước ôn đới khác không có cây cau. (Dễ thấy nhất là Canada, Hoa Kỳ không có cây cau.)

 

Một chứng liệu khác về trầu cau liên quan đến phía nam miền Trung Việt Nam ngày nay.  Trước thế kỷ 17 vùng nầy là nước Chiêm Thành.  Khi mới được thành lập vào thế kỷ thứ 2, Chiêm Thành có hai thị tộc chính là thị tộc cây Cau (Kramukavamca) ở phía nam và thị tộc cây Dừa (Narikelavamca) ở phía bắc.  (Dohamide và Dorohiem, Chiêm Thành lược sử, Sài Gòn 1965, tt. 21-22.)  Có người kể rằng trong phẩm vật trên bàn thờ cúng tế của bà chúa “Thềm”, vị công chúa cuối cùng của Chiêm Thành trước năm 1975 ở Phan Rí (tỉnh Bình Thuận) có một bộ trầu cau bằng vàng ròng.

 

Cây cau trở thành vật tổ của một thị tộc bản địa từ thời cổ sử, chứng tỏ cây cau đã hiện diện lâu đời trước khi có người bản địa, nên người bản địa mới tôn thờ cây cau thành vật tổ.

 

TẬP TỤC ĂN TRẦU

 

Theo sách Lĩnh Nam chích quái, tập tục người Việt ăn trầu cau bắt đầu từ thời Hùng Vương và dần dần trở thành một phong tục trong sinh hoạt của người Việt.  

 

Gặp nhau thăm hỏi, thì mời ăn miếng trầu.  “Miếng trầu là đầu câu chuyện.”  Trong những cuộc gặp mặt, hội hè, lễ nghi của người Việt, quan trọng nhất là lễ cưới hỏi.  “Trầu nầy trầu tính trầu tình / Trầu nhân trầu nghĩa, trầu mình cưới ta.”  Hoặc tiếc nuối một mối duyên lỡ thì.  “Ba đồng một mớ trầu cay/ Sao anh không giạm  những ngày còn không?” 

 

Vấn đề người Việt đưa trầu cau vào lễ nghi tế tự từ khi nào thì rất khó xác định.  Sách gia phả tại đền thờ Ngô Quyền, làng Đằng Hải, Hải Phòng, có viết rằng bà mẹ nằm mơ thấy cây cau rồi sinh ra Ngô Quyền. (Nguyễn Ngọc Chương, sđd. tt. 36, 323.)  Ngô Quyền là người đã đánh tan quân Nam Hán năm 938 tại sông Bạch Đằng, giành độc lập cho nước ta và xưng vương vào mùa xuân năm Kỷ Hợi 939 ở Cổ Loa, cách đây đúng 1080 năm. (Năm nay, 2019 cũng là năm Kỷ Hợi.)

 

Ngày xưa, khi sinh con quý (quý tử), theo các điển tích bói toán, người ta thường viết rằng bà mẹ nằm mơ thấy thần nhân, tiên thánh, mặt trời, mặt trăng, hoặc thấy rồng vàng.  Đàng nầy, gia đình nhà Ngô lại viết rằng trước khi sinh đại quý tử, Ngô thị nằm mơ thấy cây cau.  Giải thích rằng nằm mơ thấy cây cau mà sinh quý tử, có nghĩa là lúc đó cây cau đã trở thành một vật thiêng, tuy không phải là vật tổ.  Như thế cây cau đã giữ một vị thế rất tôn kính trong đời sống tâm linh của người Việt.  Có thể lúc đó trầu cau đã được dùng trong lễ nghi tế tự.

 

Năm 990, Tống Thái Tông, vua Trung Hoa cử hai sứ giả (Tống Cảo và Vương Thế Tắc làm chánh phó sứ), sang nước ta.  Khi trở về, Tống Cảo thuật lại rằng: "Lê Hoàn cầm cương ngựa, cùng sứ giả cùng đi, rồi lấy trầu mời trên mình ngựa, đấy là phong tục mời khách rất quý..." (Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói (Phong tục Việt Nam), Sài Gòn: Cơ sở ấn loát Đường Sáng, 1970, tr. 149.  Tác giả nầy trích dẫn sách bằng chữ Nho là Văn hiến thông khảo, khuyết danh.)

 

Tiếp đón sứ giả Trung Hoa là việc ngoại giao quan trọng; thế mà miếng trầu đã được đưa vào nghi thức tiếp đón sứ giả, đủ thấy lúc bấy giờ trầu cau đã giữ một vị thế quan trọng trong sinh hoạt triều đình.

 

Một câu chuyện khác được chính sử nước ta kể lại cũng chứng tỏ cau trầu có mặt trong sinh hoạt cung đình khá sớm.  Đó là khi Trần Thủ Độ đưa cháu là Trần Cảnh vào triều hầu vua Lý Chiêu Hoàng (trị vì 1224-1225); Lý Chiêu Hoàng dùng khăn trầu (khăn đậy khay trầu) ném vào người để trêu Trần Cảnh.  Trần Cảnh thuật lại với Thủ Độ.  Thủ Độ cho rằng Chiêu Hoàng đã ưa thích Trần Cảnh nên đóng cửa cung, làm lễ thành hôn cho hai người năm 1225.  Sau đó Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng tức Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400). (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Nxb, Khoa học Xã hội, tập 1, Hà Nội, 1993, tt. 339-340.)

 

KẾT LUẬN

 

Tóm lại, chuyện trầu cau có những điểm đặc biệt thật đáng chú ý:  Thứ nhứt là chuyện trầu cau nhắc lại dấu vết xã hội mẫu hệ cổ Việt trước khi bị Trung Hoa xâm lăng.  Thứ hai, Trung Hoa không có cây cau và dây trầu.  Thứ ba, tập tục ăn trầu cau là tập tục của người vùng nhiệt đới, ở những nước nằm về phía nam nước Trung Hoa.  Người Trung Hoa học theo tập tục nhai trầu cau của người Việt và người Trung Hoa phải nhập cảng cau khô của người Việt. (Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục [thế kỷ 18], Hà Nội: bản dịch của Nxb. Khoa học Xã hội, 1977, tt. 234, 337.)

 

Tất cả những yếu tố về thời gian, về nhân vật, về cây cau dây trầu, về tập tục trong cổ tích trầu cau là những chứng liệu rõ nét góp phần vào kho tàng sử liệu Việt, khẳng định rằng trước khi người Trung Hoa (chủng Mông Cổ) và nền văn hóa Trung Hoa tràn vào cổ Việt, thì tại đây đã có một nền văn hóa bản địa, với lễ nghi tập tục riêng biệt. 

 

Như thế “Chuyện trầu cau” là cổ tích thuần túy của người Việt, một dân tộc luôn luôn chống lại quân bành trướng xâm lược từ phương Bắc, duy trì nền độc lập và nét đặc thù văn hóa Việt Nam.

 

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 14-4-2019)


 
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.