Hôm nay,  

"BÒ CÁCH LY”

19/04/201910:03:00(Xem: 7078)

"BÒ CÁCH LY”
  
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

 
Minh Hải Hồ là họ tên quay nôi của cha mẹ Việt gốc Tàu đặt lúc anh mới chào đời tại Chợ Lớn. Suốt hai mươi năm trong quân ngũ, từ cấp binh nhì dần dà được thăng cấp lên Trung sĩ . Vì có tinh thần chiên đấu xuất sắc nên được cấp trên cho đi thụ huấn khóa sĩ quan đặc biệt. Từ năm 1974 thượng cấp bổ nhiệm anh giữ chức Đại đội phó kiêm sĩ quan CTCT thuộc một đại đội Đia Phương Quân bảo vệ an ninh vòng đai phi trường. 
Sau cuộc “đổi đời 1975”, Đại úy Minh Hải Hồ vào tù. Dù tuổi đời tròn trèm bốn mươi nhưng bạn bè đùa chơi cứ gọi anh là Bác mỗi khi không có cán bộ. Bác Minh Hải Hồ chẳng phiền trách mà lấy đó làm vui.
Một hôm, cả đội đang trồng sắn trên đồi, Hải Hồ xin phép cán bộ đi “đại tiện”. Lúc điểm
danh thấy vắng mặt, anh em hỏi : “Bác đâu ?” Bỗng, từ trong buị rậm anh vội vàng chạy ra, vừa cột dây lưng quần vừa la lớn : “có Bác Hồ đây.” Cả đội sửng sốt, lạnh cả người. 
Quản giáo đội nghe được, gọi anh lại hỏi :
-Anh tên gì ?

-Thưa cán bộ, tên Hồ.
-Họ gì ?
-Minh.
-Ai đặt tên cho anh thế ?
Cha mẹ đặt trong khai sinh.
Anh có biết anh đã xúc phạm đến tên thiêng liêng của Bác không ? từ nay trở đi, tôi cấm anh không được xưng tên đó nữa.
-Thưa cán bộ,vậy gọi tên gì ?
Muốn kêu tên gì tùy ý trừ cái tên thiêng liêng đó. Tối nay anh viết kiểm điểm, ngày mai nộp cho tôi.
Minh Hải Hồ trình bày trước đội Tù về lệnh của cán bộ quản giáo buộc anh đặt tên khác. Ai ai cũng bụm miệng cười.

Để giải quyết sự khó khăn của Hồ, bạn bè góp ý tìm cho anh một tên mới. Ác thay, cái họ Minh của anh cũng “phạm húy”. Vì vậy có người đề nghị lấy tên lót Hải thay tên Hồ để gọi nhau, nhưng trong đội đã có Hải trắng và Hải đen. 
Ông bà ta thường nhắm người mà đặt tên, nên cả đội đồng ý lấy tên Hải Vồ là hợp hơn cả. Dù sao thì cái tên Vồ vẫn còn giữ được âm ồ mà cha mẹ anh đã đã chọn . Đồng thời lại hợp với chiếc trán dô ra qúa cỡ của anh.
Sáng hôm sau, Hải Vồ nộp tờ kiểm điểm cho quản giáo. Nhìn vào tờ giấy, cán bộ hỏi: 
- Anh tên gì ?
Thưa cán bộ, tên Hải Vồ,
Trong danh sách đội không có tên nầy. Ai bảo anh đổi tên?
Cán bộ ra lệnh.
Tôi bảo anh đừng xưng tên của Bác, đâu bảo anh sửa tên trong tờ kiểm điểm.
…! ! !
- Tại sao anh không thừa nhận có khuyết điểm ? 
-Thưa cán bộ, tôi đâu có vi phạm nội quy. 
- Anh ù lỳ đấy à ? Anh xúc phạm đến tên thiêng liêng của Bác mà dám bảo là không sai phạm.
Thưa cán bộ, cha mẹ đặt tên cho tôi đấy chứ !
Cha mẹ đặt nhưng anh mang tên đó. Anh rõ chưa ?
Dạ, rõ ạ.
Đúng là lý luận của loài cáo đối với chú cừu con “ mầy không lỗi thì đời cha mầy lỗi, đời cha không lỗi thì đời ông mầy vậy.”( Thơ Ngụ ngôn của La Fontaine ) . Ông Quản giáo lôi lý lịch cả ba đời ra, tha hồ mà bắt tội !

Hải Vồ trong suốt ba năm cải tạo không có một lần thăm nuôi. Tuy vậy, anh rất yêu đời và tin tưởng tuyệt đối vào lời hứa của cách mạng : “Trước sau như một, trại viên nào lao động tốt sẽ được tha.” 
Hải Vồ bản chất cục mịch thiệt thà, làm việc cật lực, lúc nào cũng vượt chỉ tiêu của trại đề ra. Hàng tuần, hàng tháng, hàng năm, anh luôn luôn được xếp hạng thành tích lao động đầu bảng. Anh em trong đội đều kiêng dè không dám khuyên can. Những buổi kiểm điểm công tác lao động trong tuần, tên Hải Vồ thường được quản giáo phát huy để nêu gương phấn đấu cho toàn đội. Đặc biệt nhất là cuộc tổng kết bình bầu tròn ba năm. 
Trong ngày lễ mồng 2 tháng 9, Hải Vồ được tuyên dương “Tù Cải Tạo Lao Động Tiên Tiến”. Lần nầy, Hải Vồ lại viết thư, mặc dầu những lá thư trước chẳng có hồi âm. Anh dặn vơ: “Em ở nhà phải thi hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương. Cần kết hợp giữa gia đình và cải tạo viên, hai bên cùng phát huy lao động tốt thì ngày về của anh không còn bao xa nữa. Đảng đã hứa trước sau như một em à.” 
Lao động đã tốt mà còn thuộc bài như thế, hỏi ai không tin Hải Vồ được đảng sắp vào hàng ưu tiên !

Chiều ngày 15 tháng 10 năm 1977, lệnh từ Tổng trại ban ra : “Các đội nhận cơm vắt và chuẩn bị hành trang đi lao động xa.” Tù nhân bắt đầu xôn xao. Cộng sản nói một đường, làm một nẻo. Vì thế, kẻ đoán đi đào kênh người nghi dời trại .Theo kinh nghiệm, mỗi lần dời trại là có đợt phóng thích. Chung quy đều là những dự đoán. 
Riêng Hải Vồ lần nầy chắc mẩm sẽ được ra tù. Anh nghĩ như thế và tin như thế bởi đảng nói trước sau như một mà. Ba năm liền có ai lao động hơn anh đâu. Tháng vừa rồi đại úy Toà, trưởng ban tiếp liệu không quân đã bị cảnh cáo toàn trại “tội lười lao động” với lý do gánh rạ không chịu bó chặt bị cán bộ quản giáo bắt gặp còn được phóng thích về đoàn tụ với gia đình huống hồ anh đã từng gánh sắn vượt chỉ tiêu gấp hai lần, từ tám đến chín chục cân.
Chính ủy Sư đoàn trực tiếp tuyên dương anh trước tổng trại. Hải Vồ còn nhớ nằm lòng câu nói của người cán bộ cấp cao : “Lao động như anh Minh Hải Hồ mới thực sự là tự giác và thể hiện sự tiến bộ của cải tạo viên”. Đêm đó, Hải Vồ sướng ran người mặc dù anh cảm thấy chất gì nhột nhạt trong cổ họng, khạc ra có vị mằn mặn và ngực hơi khó thở. Anh nghĩ thầm : “Ồ, chỉ vài sợi máu vấy trong đờm, nhằm nhò gì. Mình sẽ được về với vợ con nay mai, cách mạng hứa là phải giữ lời với tù chứ !”
Hải Vồ thao thức gần trọn đêm. Anh tưởng tượng giờ phút cán bộ gọi tên mình lên văn phòng nhận giấy ra trại, lại có thêm phần tuyên dương : “Một cải tạo viên tiến bộ về tư tưởng, có thành tích lao động vượt chỉ tiêu suốt ba năm”.
Anh nghĩ đến đôi mắt sửng sốt của vợ khi trông thấy chồng lù lù xuất hiện nơi khung cửa và bầy con bảy đứa nhào đến đứa ôm cổ, đứa ôm chân bố! Niềm hân hoan chạy rần rật trong cái thân thể da bọc xương của anh như vừa “phi” một hơi thuốc phiện.

Kẻng báo thức từ lúc màn sương còn phủ dày đặc trên khắp miền thung lũng. Chim rừng lặng tiếng trước cái lạnh nhức mắt của những ngày cuối Đông. Tù nhân run rẩy tập họp trước sân trại. Những ba lô, xách tay, chiếu mùng , xoong nồi cồng kềnh như đám dân du mục, họ lần lượt lên chiếc xe tải bịt bùng khi tên mình được xướng lên. 
Danh sách đầu tiên gồm thành phần An ninh, Tình báo, Chiến tranh Chính trị, và các sĩ quan cấp tá. Điều đáng ngạc nhiên là Minh Hải Hồ có tên trong danh sách nầy. Không còn nghi ngờ gì nữa, tù bị chuyển đi trại khác. Tù ở Bắc hay tù ở Trung vẫn là những ngày khổ ải tiếp tục kéo dài. 
Hải Vồ bắt đầu khóc cùng lúc với đoàn xe lăn bánh. Anh khóc như một người vợ khi nghe tin chồng tử trận. Ôm đầu vật vã tưởng chừng anh sắp lên cơn điên. Niềm tin trong anh vừa bị bức tử từ lúc gọi tên mình lên xe. Cách mạng đã dối trá, lừa gạt cái đầu quá đơn giản của anh. Và chính cái đầu đơn giản đó đã làm cho bao nhiêu đồng đội phải lao đao, khốn khổ vì mức lao động vượt chỉ tiêu của mình.
Chỉ là một đại đội phó Địa Phương Quân bảo vệ phi trường, Hải Vồ đã thật thà khai báo cho thêm phần quan trọng “Đại đội phó an ninh phi trường kiêm Sĩ quan CTCT”. Hai chữ An ninh và Chiến Tranh Chính Trị khốn khổ đã đẩy anh thêm mấy năm tù nữa... Kể từ đó, cái tên Hải Vồ được thay bằng tên “Minh Sáng Mắt”.

 

Đoàn xe mười hai chiếc gầm gừ leo lên dốc tiến vào cổng trại Cải Tạo An Điềm. Lần lượt từng chiếc một đổ đám tù lếch thêch tả tơi giữa khu sân rộng. Trại tù nằm trên đỉnh đồi với hai mươi căn nhà xây vách gạch, mái ngói trông rất bề thế, được bao bọc bởi bức tường cao bằng gạch xi măng kiên cố, trên đầu tường thêm mấy hàng kẻm gai.. Là nhà tù chính thức do lực lượng công an là Cai tù chuyên nghiêp Xã hội Chủ nghĩa điều hành nên khác xa cảnh trại Tập trung tạm thời do bộ đội quản lý .
Đám công an đồng phục màu vàng, tay lăm le cò súng, chĩa thẳng nòng vào đoàn tù xơ xác đang sắp thành bốn hàng ngang chờ cán bộ khám xét đồ dùng trước khi nhập tù. Không khí nặng nề, nghẹt thở.
Ban giám thị trại gọi tên từng người tuần tự vào các nhà số 1, số 2, số 3… Đủ sáu mươi người là cánh cửa đồ sộ được đóng lại. Cán bộ công an bảo vệ chốt cửa bằng một thanh gỗ lớn từ phía bên ngoài.
Nỗi chán chường hiện rõ trên nét mặt tối sầm của từng tù nhân. 
Thế là hết, chút hy vọng về nhà tù mới được thoải mái hơn đã tắt theo ánh sáng khung cửa duy nhất của phòng giam vừa đóng kín. Bóng tối lờ mờ từ các khung cửa sổ tò vò rọi vào những khuôn mặt chập chờn như bóng ma. Ánh mắt không hồn nhìn nhau ẩn chứa một điều duy nhất : “Những ngày tháng khắc nghiệt hơn, đau khổ hơn đang chờ đợi người tù…”.

 

Cái Tết đầu tiên tại trại tù do công an quản lý, ban giám thị cho tù nhân bồi dưỡng ba con bò và một trăm ký nếp gói bánh ú. Khi tin ấy được thông báo, mọi người rất hồ hởi. Anh em mừng thầm : “Tết nầy có chất tươi khấm khá”.
“ Ai bảo công an là chúa khắc nghiệt đối với tù ? Ai bảo công an là hiện thân của hung thần chốn trần gian ? …” Đó là ý niệm đầu tiên về lực lượng “Công an Nhân dân” mà người tù miền Nam xem chúng chẳng khác gì lực lượng SS của Đức quốc xã, mật vụ KGB cuả Staline. Ai đã đọc truyện Một Ngày Trong Đời Ivan Denissovitch hoặc Tầng Đầu Địa Ngục của tác giả Nga Soljenitsyne thì không ít nhiều đều khiếp sợ. 
Dù sao thì không khí lo âu trong những ngày đầu mới đến đây có phần lắng dịu.
Chiều ba mươi Tết, đến giờ lãnh thức ăn, kẻ cầm ca, người cầm gô, khuôn mặt người nào cũng hớn hở. Họ vui mừng sắp có một bữa thịt bò tươi sau bao ngày thèm thuồng đói khát. Ai cũng thầm mong có được một chén thịt đầy, tươm mỡ. 
Món thịt bò xào thơm ngào ngạt từ nhà bếp bay đến tận các láng trại. Tù nhân hít hà, nước miếng tuôn ra. Người dự tính chén ngay phần thịt bò trước tiên cho đã cơn ghiền. Một bạn khác có ý kiến chí lý hơn, khuyên nên ăn một nửa thịt thôi, còn nửa kia dành lại để ăn trước khi đi ngủ cho đỡ phần xót bụng. Người bạn nằm bên nhắc khéo : “Nầy, đằng ấy chớ nên ăn vội vàng nhé, nhớ nhai thật nhỏ, mình mới thưởng thức hết hương vị ngọt ngào, béo ngậy của miếng thịt bò tươi”. Ôi, niềm hạnh phúc to lớn của tù đang căng đầy trên năm mươi cặp mắt sáng rỡ.
Toán trực bưng thức ăn về đến cửa. Cả phòng gióng mắt đợi chờ. Khi mười hai ô thịt được đặt “an vị” trên sạp nằm, mọi người ồ lên thất vọng. Một phần ba ô thịt chia cho mười người. Kết quả, mỗi tù nhân vỏn vẹn có bốn miếng da dính thịt, hai miếng gân, một cục xương với nửa chén nước luộc da bò ! Hy vọng càng nhiều thất vọng càng lớn. Ở đây, nỗi thất vọng càng làm cho ruột gan mọi người “xót như muối, nhàu như dưa” trước cái thân phận tù đày của mình! Cơn vui đang căng phồng tột đỉnh, đột ngột xẹp nhanh như chiếc bong bóng xì hơi khi từng người nhận về phần thịt và da ít oi của mình. 
Ngay chiều hôm đó, một “bản tin truyền tai” được đánh đi từ nhà bếp : “Lòng ưu ái của đảng và nhà nước dành cho 1200 tù cải tạo trong ngày Tết thiêng liêng của dân tộc là ba con BÒ CÁCH LY !”
Nhà tù cộng sản nào cũng có khu cách ly dành cho tù bị bệnh truyền nhiễm như lao phổi, kiết lỵ, thương hàn… Thành phần nầy toàn là những người suy nhược, mất sức, thân thể gầy còm chỉ còn da bọc xương.
Những ngày mùa đông nắng ráo, nhìn những thân thể trần trụi của bệnh nhân phơi nắng trong khu tù cách ly, ta có cảm tưởng là khu triển lãm lộ thiên những bộ xương người. Thân hình vặn vẹo, co quắp, bày ra những chiếc xương sườn được bọc lớp da xanh xao, vàng tái đầy ghẻ lở. Chân tay là những khúc xương khẳng khiu nối liền với các khớp sưng vù do bệnh thấp khớp kinh niên. Đôi chân rã rời bước đi như người máy hết pin, run run, chập chững. Đôi tay buông thõng bất lực trước lũ ruồi đang tranh nhau đục khoét những ổ vi trùng trong đám ghẻ lở.
Đêm ba mươi, lệnh từ trên ban xuống : “Tù nhân không được ngủ, phải hát những bài đồng ca, đón giao thừa tập thể. Ngồi nghiêm chỉnh nghe lời chúc Tết của Chủ tịch nước được truyền qua loa phóng thanh. Đội nào im tiếng hát là có ý đồ chống đối.
Tội nghiệp cho thân tù, với bốn miếng da bò dai như da giày, một cái bánh ú gạo nếp bằng nắm tay trẻ con mà phải thức trả nợ suốt cả đêm. Lời chúc Tết năm xưa phát ra từ cái Tết Mậu Thân đầy máu và nước mắt: “…Đánh cho Mỹ cút ngụy nhào. Tiến lên chiến sĩ đồng bào, Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn…” được truyền thanh liên tục mấy cái Tết liền, nhân dân cả nước đã nhét đầy lỗ tai đến độ tràn ra ngoài, không còn chỗ nào nhét nổi, bây giờ vẫn còn tiếp tục phát đi.

 

Tối mồng hai Tết, lệnh tập họp khẩn trương toàn trai. Công An bảo vệ súng trong tay, nét mặt đằng đằng sát khí tràn ngập cả khu tập thể. Sau khi các khối tù ngồi ổn định trên sân, hai tù nhân được áp giải ra trước sân hội trường trình diện Ban giám thị. Hai phạm tù bị xích tay chung một còng số tám do hai công an áp giải. Ánh sáng ngọn đèn điện vàng vọt soi vào khuôn mặt hốc hác của hai bạn tù thoạt trông như hai chiếc đầu lâu đang di động. Chúng đẩy hai tù phạm đến dưới chân cột đèn đối diện với đám người áo vàng đang ngồi trên dãy ghế cao. Từng người một lần lượt tự đọc tờ kiểm điểm về bản tin đã loan truyền “ba con bò cách ly” mà các bạn ấy nói đùa trong lúc vô tình. 
Giám thị trưởng đóng vai quan tòa đọc bản lên án hai phạm tù : “Trần Siêng và Minh Hải Hồ đã tung tin thất thiệt, dùng danh từ “bò cách ly” để ám chỉ Đảng và Nhà nước ta cho tù ăn thịt bò ốm đau, có toan tính làm hạ uy tín cán bộ và lãnh đạo trại, tuyên truyền xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước. Để chận đứng hình thức tuyên truyền phản động, nay quyết định dành hình phạt để giáo dục hai phạm tù Trần Siêng và Minh Hải Hồ như sau : Cùm sấp hai mươi bốn giờ, nhốt phòng biệt giam một tuần lễ, hạ tiêu chuẩn phần ăn, cấm thăm nuôi một năm và đuổi ra khỏi nhà bếp đi lao động ngoài”
Trần Siêng và Hải Hồ thuộc đội nhà bếp phụ trách làm thịt bò. Họ đã chứng kiến ba con bò già, bịnh hoạn, phế thải chỉ còn da bọc xương mà ban giám thị dành bồi dưỡng cho tù.
Sự hài hước châm biếm cười ra nước mắt của họ là dùng từ “ bò cách ly”. Và ba chữ “bò cách ly” trở nên thành ngữ của tù mỗi khi đùa cợt.
 
Về sau, mỗi đợt được gia đình thăm nuôi, thế nào cũng có anh than vãn đại loại như:
“ Từ ngày vào hợp tác xã, bầy con tớ thiếu ăn gầy như đàn” bò cách ly”, trông thấy chúng mà ruột mình như xát muối”. 
Hay một anh bạn khác trong toán cày bừa vừa bắt được ếch ngoài ruộng lén mang vào trại lên tiếng: 
“Tớ tóm được hai chú ếch thuộc loại “bò cách ly” đây, ông nào tình nguyện chạy bếp nấu cháo, hai bên cùng có lợi, chia hai.”

 

Như thế đó, đám tù cùng khổ thỉnh thoảng cũng có một vài phút giải sầu. Xin cảm ơn hai bạn tù nhà bếp đã làm giàu thêm cho bộ từ điển nhân gian nhóm từ ngữ rất hiện đại : “Bò cách ly”. Các nhà biên soạn từ điển thuộc nhóm Khoa học Xã hội ở Hà Nội nhớ đừng quên bổ túc thành ngữ mới đầy ý nghĩa nầy vào bộ Đại Từ Điển Tiếng Việt với ghi chú nơi xuất xứ : “từ nhà tù Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam !”
Trích trong Tác phẩm “Lưu Dấu Ngày Xưa” 
Tác giả Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích 


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một sự trùng hợp về thời gian 20 năm trong chiến tranh Việt Nam đã lập lại ở Afghanistan vào ngày 15/08/2021 với hình ảnh chiếc trực thăng di tản người Mỹ chạy thoát từ nóc Tòa Đại sứ Mỹ trong lúc phiến quân Taliban đã chiếm dinh Tổng thống không tốn một viên đạn, ngay sau khi Tổng thống Ashraf Ghani bỏ trốn ra nước ngoài.
Mùa Vu Lan hiếu hạnh – báo ân cha mẹ – là truyền thống lâu đời của người con hiếu thảo nhưng làm sao tạo được một cơ hội chia sẻ, an ủi và liên tưởng đến mặt phản diện của những đứa con bất hiếu chưa gặp duyên lành để biết ăn năn sám hối trở về với cha mẹ.
Nhận định của một số giới chức quân sự và chính trị cho đó là thất bại về tình báo từ phía Hoa Kỳ đã đánh giá sai về bộ đội cộng sản Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam, nay lại sai về quân Taliban ở Afghanistan khiến Mỹ phải vội vàng di tản. Hình ảnh máy bay trực thăng di tản người Mỹ và những người đã hợp tác với Hoa Kỳ ra khỏi Sài Gòn cuối tháng Tư 1975 và ngày 15/8 vừa qua ra khỏi Kabul sẽ còn in dấu trong tâm thức người Mỹ và dư luận thế giới trong nhiều năm.
Trên Bloomberg Opinion ngày 26 tháng 04 năm 2021, một trong hai tác giả là Cựu Đô đốc James G. Stavridis, trình bày kịch bản này trong bài “Four Ways a China-US War at Sea Could Play Out” mà bản dịch sau đây sẽ giới thiệu. Theo Stavridis,“bốn điểm nóng” mà Hải quân Trung Quốc có khả năng tấn công là eo biển Đài Loan, Nhật Bản và Biển Hoa Đông, Biển Hoa Nam và các vùng biển xa hơn xung quanh các nước Indonesia, Singapore, Australia và Ấn Độ. Nhưng nguy cơ cao nhất là Đài Loan.
Đó là lý do cần nhắc sơ lại Hòa Ước Doha 2020, bởi nếu xem chính phủ Afghanistan là một "đồng minh" của Hoa Kỳ thì đồng minh này đã bị phản bội và bức tử ngay tháng Hai năm 2020 theo sau Hòa Ước Doha của nội các Donald Trump ký với Taliban chứ không phải hôm nay. Liệu có cần nhắc lại hòa đàm Paris vào năm 1973 đã dẫn đến sự sụp đổ báo trước của miền Nam Việt Nam vào tháng Tư năm 1975? Và giới sử gia thường nhắc lại vai trò của tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong việc bỏ rơi Nam Việt Nam chứ không phải tổng thống Gerald Ford, vị tổng thống Mỹ đương nhiệm năm 1975.
Theo dõi tin tức từ quốc gia này, tấm lòng của chúng tôi hướng về người dân Afghanistan và những người tị nạn đang bị buộc phải bỏ trốn để giữ mạng sống. Hơn nữa, chúng tôi tha thiết quan ngại đến số phận của hàng triệu phụ nữ và trẻ em gái của xứ sở này, vì họ phải đối diện với một tương lai đen tối khi gặp trở lại sự đối xử tàn tệ của nhà nước Taliban.
Vốn ham vui, và rất chóng quên nên mẹ tôi ở lại luôn trong Nam cả năm trời. Hệ quả (hay hậu quả) là tôi cất tiếng khóc chào đời tại Sài Gòn. Khi hiệp định đình chiến được ký kết tại Geneve, vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi mới vừa lẫm chẫm biết đi. Cũng mãi đến lúc này bà má mới “chợt nhớ” ra rằng mình còn mấy đứa con nữa, đang sống với ông bà ngoại, ở tuốt luốt bên kia vỹ tuyến. Thế là tôi được bế ra ngoài Bắc, rồi lại được gồng gánh vào Nam (cùng với hai người chị) không lâu sau đó. Nhờ vậy (nhờ ra đời trước cái đám Bắc Kỳ con sinh trong Nam đôi ba năm) nên từ thuở ấu thơ tôi đã được nghe nhiều bài hát ca ngợi tình bắc duyên nam – qua radio – vào thời điểm đó
Tổng Thống Cộng Hòa Liên bang Đức, Frank-Walter Steinmeier mô tả ngày 13 tháng 8 năm 1961, ngày bắt đầu xây dựng Bức tường Berlin (ghi chú thêm: Người Việt Nam gọi là Bức Tường Ô Nhục Bá Linh), là "một ngày định mệnh cho người Đức chúng tôi và cho thế giới". Vào thời điểm đó, "sự phân chia thế giới trong Chiến tranh Lạnh đã được củng cố theo đúng nghĩa đen", ông nói hôm thứ Sáu 13.8.2021 tại lễ niệm xây dựng Bức tường Berlin.
Nhưng điều kiện quan trọng nhất để Việt Nam không bị tụt hậu kinh tế và hàng chục triệu công nhân có thể trở lại làm việc tại các khu công nghiệp, sản phẩm nông-lâm-ngư tiêu thụ được, lưu thông, vận tải được hồi sinh, người dân tự tin đi làm việc, học sinh an tâm đến lớp… là mọi người cần phải chích ngừa loại ưu tiên 1 sẽ có thuốc đầy đủ và được chích miễn phí nhanh chóng. Sau đó là đến toàn xã hội và trẻ em cũng cần phải được tiêm ngừa. Ngược lại, nếu Lãnh đạo chỉ biết hô chống dịch bằng “khẩu hiệu” thì Việt Nam sẽ rước lấy thất bại nhãn tiền.
Ngành tài chánh tuy là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng trầm trọng như tại Đông Á 1998, Mỹ 2007 và khu vực Euro 2010 nhưng đóng vai trò thiết yếu cũng giống như trái tim trong kinh tế thị trường. Nhiệm vụ của thị trường tài chánh là biến tiết kiệm trong dân chúng trở thành nguồn vốn cho doanh nghiệp. Quá trình sạn lọc mang dòng vốn đến với doanh nghiệp tốt để phát triển, kinh tế tăng trưởng thì dân chúng cũng được hưởng lợi ích đầu tư. Bài này tìm hiểu về thị trường tài chánh của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thị trường ở Mỹ đa dạng phong phú nhưng trải qua những chu kỳ thăng trầm. Trong khi đó ở Hoa Lục thị trường tài chánh không phát triển tự do vì chịu sự kiểm soát chặc chẻ của nhà nước; dòng vốn chảy vào các ngành nghề do nhà nước ưu đãi nên sinh ra lãng phí và lạm dụng. Người dân sau khi tiêu xài nếu còn dư tiền còn 3 chổ để dành hay đầu tư: tiết kiệm (savings tức là gởi tiền vào ngân hàng), đầu tư (investment hay hùn vốn, cho vay, mua chứng khoáng, v.v…), đánh bạc


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.