Hôm nay,  

"BÒ CÁCH LY”

19/04/201910:03:00(Xem: 6288)

"BÒ CÁCH LY”
  
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

 
Minh Hải Hồ là họ tên quay nôi của cha mẹ Việt gốc Tàu đặt lúc anh mới chào đời tại Chợ Lớn. Suốt hai mươi năm trong quân ngũ, từ cấp binh nhì dần dà được thăng cấp lên Trung sĩ . Vì có tinh thần chiên đấu xuất sắc nên được cấp trên cho đi thụ huấn khóa sĩ quan đặc biệt. Từ năm 1974 thượng cấp bổ nhiệm anh giữ chức Đại đội phó kiêm sĩ quan CTCT thuộc một đại đội Đia Phương Quân bảo vệ an ninh vòng đai phi trường. 
Sau cuộc “đổi đời 1975”, Đại úy Minh Hải Hồ vào tù. Dù tuổi đời tròn trèm bốn mươi nhưng bạn bè đùa chơi cứ gọi anh là Bác mỗi khi không có cán bộ. Bác Minh Hải Hồ chẳng phiền trách mà lấy đó làm vui.
Một hôm, cả đội đang trồng sắn trên đồi, Hải Hồ xin phép cán bộ đi “đại tiện”. Lúc điểm
danh thấy vắng mặt, anh em hỏi : “Bác đâu ?” Bỗng, từ trong buị rậm anh vội vàng chạy ra, vừa cột dây lưng quần vừa la lớn : “có Bác Hồ đây.” Cả đội sửng sốt, lạnh cả người. 
Quản giáo đội nghe được, gọi anh lại hỏi :
-Anh tên gì ?

-Thưa cán bộ, tên Hồ.
-Họ gì ?
-Minh.
-Ai đặt tên cho anh thế ?
Cha mẹ đặt trong khai sinh.
Anh có biết anh đã xúc phạm đến tên thiêng liêng của Bác không ? từ nay trở đi, tôi cấm anh không được xưng tên đó nữa.
-Thưa cán bộ,vậy gọi tên gì ?
Muốn kêu tên gì tùy ý trừ cái tên thiêng liêng đó. Tối nay anh viết kiểm điểm, ngày mai nộp cho tôi.
Minh Hải Hồ trình bày trước đội Tù về lệnh của cán bộ quản giáo buộc anh đặt tên khác. Ai ai cũng bụm miệng cười.

Để giải quyết sự khó khăn của Hồ, bạn bè góp ý tìm cho anh một tên mới. Ác thay, cái họ Minh của anh cũng “phạm húy”. Vì vậy có người đề nghị lấy tên lót Hải thay tên Hồ để gọi nhau, nhưng trong đội đã có Hải trắng và Hải đen. 
Ông bà ta thường nhắm người mà đặt tên, nên cả đội đồng ý lấy tên Hải Vồ là hợp hơn cả. Dù sao thì cái tên Vồ vẫn còn giữ được âm ồ mà cha mẹ anh đã đã chọn . Đồng thời lại hợp với chiếc trán dô ra qúa cỡ của anh.
Sáng hôm sau, Hải Vồ nộp tờ kiểm điểm cho quản giáo. Nhìn vào tờ giấy, cán bộ hỏi: 
- Anh tên gì ?
Thưa cán bộ, tên Hải Vồ,
Trong danh sách đội không có tên nầy. Ai bảo anh đổi tên?
Cán bộ ra lệnh.
Tôi bảo anh đừng xưng tên của Bác, đâu bảo anh sửa tên trong tờ kiểm điểm.
…! ! !
- Tại sao anh không thừa nhận có khuyết điểm ? 
-Thưa cán bộ, tôi đâu có vi phạm nội quy. 
- Anh ù lỳ đấy à ? Anh xúc phạm đến tên thiêng liêng của Bác mà dám bảo là không sai phạm.
Thưa cán bộ, cha mẹ đặt tên cho tôi đấy chứ !
Cha mẹ đặt nhưng anh mang tên đó. Anh rõ chưa ?
Dạ, rõ ạ.
Đúng là lý luận của loài cáo đối với chú cừu con “ mầy không lỗi thì đời cha mầy lỗi, đời cha không lỗi thì đời ông mầy vậy.”( Thơ Ngụ ngôn của La Fontaine ) . Ông Quản giáo lôi lý lịch cả ba đời ra, tha hồ mà bắt tội !

Hải Vồ trong suốt ba năm cải tạo không có một lần thăm nuôi. Tuy vậy, anh rất yêu đời và tin tưởng tuyệt đối vào lời hứa của cách mạng : “Trước sau như một, trại viên nào lao động tốt sẽ được tha.” 
Hải Vồ bản chất cục mịch thiệt thà, làm việc cật lực, lúc nào cũng vượt chỉ tiêu của trại đề ra. Hàng tuần, hàng tháng, hàng năm, anh luôn luôn được xếp hạng thành tích lao động đầu bảng. Anh em trong đội đều kiêng dè không dám khuyên can. Những buổi kiểm điểm công tác lao động trong tuần, tên Hải Vồ thường được quản giáo phát huy để nêu gương phấn đấu cho toàn đội. Đặc biệt nhất là cuộc tổng kết bình bầu tròn ba năm. 
Trong ngày lễ mồng 2 tháng 9, Hải Vồ được tuyên dương “Tù Cải Tạo Lao Động Tiên Tiến”. Lần nầy, Hải Vồ lại viết thư, mặc dầu những lá thư trước chẳng có hồi âm. Anh dặn vơ: “Em ở nhà phải thi hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương. Cần kết hợp giữa gia đình và cải tạo viên, hai bên cùng phát huy lao động tốt thì ngày về của anh không còn bao xa nữa. Đảng đã hứa trước sau như một em à.” 
Lao động đã tốt mà còn thuộc bài như thế, hỏi ai không tin Hải Vồ được đảng sắp vào hàng ưu tiên !

Chiều ngày 15 tháng 10 năm 1977, lệnh từ Tổng trại ban ra : “Các đội nhận cơm vắt và chuẩn bị hành trang đi lao động xa.” Tù nhân bắt đầu xôn xao. Cộng sản nói một đường, làm một nẻo. Vì thế, kẻ đoán đi đào kênh người nghi dời trại .Theo kinh nghiệm, mỗi lần dời trại là có đợt phóng thích. Chung quy đều là những dự đoán. 
Riêng Hải Vồ lần nầy chắc mẩm sẽ được ra tù. Anh nghĩ như thế và tin như thế bởi đảng nói trước sau như một mà. Ba năm liền có ai lao động hơn anh đâu. Tháng vừa rồi đại úy Toà, trưởng ban tiếp liệu không quân đã bị cảnh cáo toàn trại “tội lười lao động” với lý do gánh rạ không chịu bó chặt bị cán bộ quản giáo bắt gặp còn được phóng thích về đoàn tụ với gia đình huống hồ anh đã từng gánh sắn vượt chỉ tiêu gấp hai lần, từ tám đến chín chục cân.
Chính ủy Sư đoàn trực tiếp tuyên dương anh trước tổng trại. Hải Vồ còn nhớ nằm lòng câu nói của người cán bộ cấp cao : “Lao động như anh Minh Hải Hồ mới thực sự là tự giác và thể hiện sự tiến bộ của cải tạo viên”. Đêm đó, Hải Vồ sướng ran người mặc dù anh cảm thấy chất gì nhột nhạt trong cổ họng, khạc ra có vị mằn mặn và ngực hơi khó thở. Anh nghĩ thầm : “Ồ, chỉ vài sợi máu vấy trong đờm, nhằm nhò gì. Mình sẽ được về với vợ con nay mai, cách mạng hứa là phải giữ lời với tù chứ !”
Hải Vồ thao thức gần trọn đêm. Anh tưởng tượng giờ phút cán bộ gọi tên mình lên văn phòng nhận giấy ra trại, lại có thêm phần tuyên dương : “Một cải tạo viên tiến bộ về tư tưởng, có thành tích lao động vượt chỉ tiêu suốt ba năm”.
Anh nghĩ đến đôi mắt sửng sốt của vợ khi trông thấy chồng lù lù xuất hiện nơi khung cửa và bầy con bảy đứa nhào đến đứa ôm cổ, đứa ôm chân bố! Niềm hân hoan chạy rần rật trong cái thân thể da bọc xương của anh như vừa “phi” một hơi thuốc phiện.

Kẻng báo thức từ lúc màn sương còn phủ dày đặc trên khắp miền thung lũng. Chim rừng lặng tiếng trước cái lạnh nhức mắt của những ngày cuối Đông. Tù nhân run rẩy tập họp trước sân trại. Những ba lô, xách tay, chiếu mùng , xoong nồi cồng kềnh như đám dân du mục, họ lần lượt lên chiếc xe tải bịt bùng khi tên mình được xướng lên. 
Danh sách đầu tiên gồm thành phần An ninh, Tình báo, Chiến tranh Chính trị, và các sĩ quan cấp tá. Điều đáng ngạc nhiên là Minh Hải Hồ có tên trong danh sách nầy. Không còn nghi ngờ gì nữa, tù bị chuyển đi trại khác. Tù ở Bắc hay tù ở Trung vẫn là những ngày khổ ải tiếp tục kéo dài. 
Hải Vồ bắt đầu khóc cùng lúc với đoàn xe lăn bánh. Anh khóc như một người vợ khi nghe tin chồng tử trận. Ôm đầu vật vã tưởng chừng anh sắp lên cơn điên. Niềm tin trong anh vừa bị bức tử từ lúc gọi tên mình lên xe. Cách mạng đã dối trá, lừa gạt cái đầu quá đơn giản của anh. Và chính cái đầu đơn giản đó đã làm cho bao nhiêu đồng đội phải lao đao, khốn khổ vì mức lao động vượt chỉ tiêu của mình.
Chỉ là một đại đội phó Địa Phương Quân bảo vệ phi trường, Hải Vồ đã thật thà khai báo cho thêm phần quan trọng “Đại đội phó an ninh phi trường kiêm Sĩ quan CTCT”. Hai chữ An ninh và Chiến Tranh Chính Trị khốn khổ đã đẩy anh thêm mấy năm tù nữa... Kể từ đó, cái tên Hải Vồ được thay bằng tên “Minh Sáng Mắt”.

 

Đoàn xe mười hai chiếc gầm gừ leo lên dốc tiến vào cổng trại Cải Tạo An Điềm. Lần lượt từng chiếc một đổ đám tù lếch thêch tả tơi giữa khu sân rộng. Trại tù nằm trên đỉnh đồi với hai mươi căn nhà xây vách gạch, mái ngói trông rất bề thế, được bao bọc bởi bức tường cao bằng gạch xi măng kiên cố, trên đầu tường thêm mấy hàng kẻm gai.. Là nhà tù chính thức do lực lượng công an là Cai tù chuyên nghiêp Xã hội Chủ nghĩa điều hành nên khác xa cảnh trại Tập trung tạm thời do bộ đội quản lý .
Đám công an đồng phục màu vàng, tay lăm le cò súng, chĩa thẳng nòng vào đoàn tù xơ xác đang sắp thành bốn hàng ngang chờ cán bộ khám xét đồ dùng trước khi nhập tù. Không khí nặng nề, nghẹt thở.
Ban giám thị trại gọi tên từng người tuần tự vào các nhà số 1, số 2, số 3… Đủ sáu mươi người là cánh cửa đồ sộ được đóng lại. Cán bộ công an bảo vệ chốt cửa bằng một thanh gỗ lớn từ phía bên ngoài.
Nỗi chán chường hiện rõ trên nét mặt tối sầm của từng tù nhân. 
Thế là hết, chút hy vọng về nhà tù mới được thoải mái hơn đã tắt theo ánh sáng khung cửa duy nhất của phòng giam vừa đóng kín. Bóng tối lờ mờ từ các khung cửa sổ tò vò rọi vào những khuôn mặt chập chờn như bóng ma. Ánh mắt không hồn nhìn nhau ẩn chứa một điều duy nhất : “Những ngày tháng khắc nghiệt hơn, đau khổ hơn đang chờ đợi người tù…”.

 

Cái Tết đầu tiên tại trại tù do công an quản lý, ban giám thị cho tù nhân bồi dưỡng ba con bò và một trăm ký nếp gói bánh ú. Khi tin ấy được thông báo, mọi người rất hồ hởi. Anh em mừng thầm : “Tết nầy có chất tươi khấm khá”.
“ Ai bảo công an là chúa khắc nghiệt đối với tù ? Ai bảo công an là hiện thân của hung thần chốn trần gian ? …” Đó là ý niệm đầu tiên về lực lượng “Công an Nhân dân” mà người tù miền Nam xem chúng chẳng khác gì lực lượng SS của Đức quốc xã, mật vụ KGB cuả Staline. Ai đã đọc truyện Một Ngày Trong Đời Ivan Denissovitch hoặc Tầng Đầu Địa Ngục của tác giả Nga Soljenitsyne thì không ít nhiều đều khiếp sợ. 
Dù sao thì không khí lo âu trong những ngày đầu mới đến đây có phần lắng dịu.
Chiều ba mươi Tết, đến giờ lãnh thức ăn, kẻ cầm ca, người cầm gô, khuôn mặt người nào cũng hớn hở. Họ vui mừng sắp có một bữa thịt bò tươi sau bao ngày thèm thuồng đói khát. Ai cũng thầm mong có được một chén thịt đầy, tươm mỡ. 
Món thịt bò xào thơm ngào ngạt từ nhà bếp bay đến tận các láng trại. Tù nhân hít hà, nước miếng tuôn ra. Người dự tính chén ngay phần thịt bò trước tiên cho đã cơn ghiền. Một bạn khác có ý kiến chí lý hơn, khuyên nên ăn một nửa thịt thôi, còn nửa kia dành lại để ăn trước khi đi ngủ cho đỡ phần xót bụng. Người bạn nằm bên nhắc khéo : “Nầy, đằng ấy chớ nên ăn vội vàng nhé, nhớ nhai thật nhỏ, mình mới thưởng thức hết hương vị ngọt ngào, béo ngậy của miếng thịt bò tươi”. Ôi, niềm hạnh phúc to lớn của tù đang căng đầy trên năm mươi cặp mắt sáng rỡ.
Toán trực bưng thức ăn về đến cửa. Cả phòng gióng mắt đợi chờ. Khi mười hai ô thịt được đặt “an vị” trên sạp nằm, mọi người ồ lên thất vọng. Một phần ba ô thịt chia cho mười người. Kết quả, mỗi tù nhân vỏn vẹn có bốn miếng da dính thịt, hai miếng gân, một cục xương với nửa chén nước luộc da bò ! Hy vọng càng nhiều thất vọng càng lớn. Ở đây, nỗi thất vọng càng làm cho ruột gan mọi người “xót như muối, nhàu như dưa” trước cái thân phận tù đày của mình! Cơn vui đang căng phồng tột đỉnh, đột ngột xẹp nhanh như chiếc bong bóng xì hơi khi từng người nhận về phần thịt và da ít oi của mình. 
Ngay chiều hôm đó, một “bản tin truyền tai” được đánh đi từ nhà bếp : “Lòng ưu ái của đảng và nhà nước dành cho 1200 tù cải tạo trong ngày Tết thiêng liêng của dân tộc là ba con BÒ CÁCH LY !”
Nhà tù cộng sản nào cũng có khu cách ly dành cho tù bị bệnh truyền nhiễm như lao phổi, kiết lỵ, thương hàn… Thành phần nầy toàn là những người suy nhược, mất sức, thân thể gầy còm chỉ còn da bọc xương.
Những ngày mùa đông nắng ráo, nhìn những thân thể trần trụi của bệnh nhân phơi nắng trong khu tù cách ly, ta có cảm tưởng là khu triển lãm lộ thiên những bộ xương người. Thân hình vặn vẹo, co quắp, bày ra những chiếc xương sườn được bọc lớp da xanh xao, vàng tái đầy ghẻ lở. Chân tay là những khúc xương khẳng khiu nối liền với các khớp sưng vù do bệnh thấp khớp kinh niên. Đôi chân rã rời bước đi như người máy hết pin, run run, chập chững. Đôi tay buông thõng bất lực trước lũ ruồi đang tranh nhau đục khoét những ổ vi trùng trong đám ghẻ lở.
Đêm ba mươi, lệnh từ trên ban xuống : “Tù nhân không được ngủ, phải hát những bài đồng ca, đón giao thừa tập thể. Ngồi nghiêm chỉnh nghe lời chúc Tết của Chủ tịch nước được truyền qua loa phóng thanh. Đội nào im tiếng hát là có ý đồ chống đối.
Tội nghiệp cho thân tù, với bốn miếng da bò dai như da giày, một cái bánh ú gạo nếp bằng nắm tay trẻ con mà phải thức trả nợ suốt cả đêm. Lời chúc Tết năm xưa phát ra từ cái Tết Mậu Thân đầy máu và nước mắt: “…Đánh cho Mỹ cút ngụy nhào. Tiến lên chiến sĩ đồng bào, Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn…” được truyền thanh liên tục mấy cái Tết liền, nhân dân cả nước đã nhét đầy lỗ tai đến độ tràn ra ngoài, không còn chỗ nào nhét nổi, bây giờ vẫn còn tiếp tục phát đi.

 

Tối mồng hai Tết, lệnh tập họp khẩn trương toàn trai. Công An bảo vệ súng trong tay, nét mặt đằng đằng sát khí tràn ngập cả khu tập thể. Sau khi các khối tù ngồi ổn định trên sân, hai tù nhân được áp giải ra trước sân hội trường trình diện Ban giám thị. Hai phạm tù bị xích tay chung một còng số tám do hai công an áp giải. Ánh sáng ngọn đèn điện vàng vọt soi vào khuôn mặt hốc hác của hai bạn tù thoạt trông như hai chiếc đầu lâu đang di động. Chúng đẩy hai tù phạm đến dưới chân cột đèn đối diện với đám người áo vàng đang ngồi trên dãy ghế cao. Từng người một lần lượt tự đọc tờ kiểm điểm về bản tin đã loan truyền “ba con bò cách ly” mà các bạn ấy nói đùa trong lúc vô tình. 
Giám thị trưởng đóng vai quan tòa đọc bản lên án hai phạm tù : “Trần Siêng và Minh Hải Hồ đã tung tin thất thiệt, dùng danh từ “bò cách ly” để ám chỉ Đảng và Nhà nước ta cho tù ăn thịt bò ốm đau, có toan tính làm hạ uy tín cán bộ và lãnh đạo trại, tuyên truyền xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước. Để chận đứng hình thức tuyên truyền phản động, nay quyết định dành hình phạt để giáo dục hai phạm tù Trần Siêng và Minh Hải Hồ như sau : Cùm sấp hai mươi bốn giờ, nhốt phòng biệt giam một tuần lễ, hạ tiêu chuẩn phần ăn, cấm thăm nuôi một năm và đuổi ra khỏi nhà bếp đi lao động ngoài”
Trần Siêng và Hải Hồ thuộc đội nhà bếp phụ trách làm thịt bò. Họ đã chứng kiến ba con bò già, bịnh hoạn, phế thải chỉ còn da bọc xương mà ban giám thị dành bồi dưỡng cho tù.
Sự hài hước châm biếm cười ra nước mắt của họ là dùng từ “ bò cách ly”. Và ba chữ “bò cách ly” trở nên thành ngữ của tù mỗi khi đùa cợt.
 
Về sau, mỗi đợt được gia đình thăm nuôi, thế nào cũng có anh than vãn đại loại như:
“ Từ ngày vào hợp tác xã, bầy con tớ thiếu ăn gầy như đàn” bò cách ly”, trông thấy chúng mà ruột mình như xát muối”. 
Hay một anh bạn khác trong toán cày bừa vừa bắt được ếch ngoài ruộng lén mang vào trại lên tiếng: 
“Tớ tóm được hai chú ếch thuộc loại “bò cách ly” đây, ông nào tình nguyện chạy bếp nấu cháo, hai bên cùng có lợi, chia hai.”

 

Như thế đó, đám tù cùng khổ thỉnh thoảng cũng có một vài phút giải sầu. Xin cảm ơn hai bạn tù nhà bếp đã làm giàu thêm cho bộ từ điển nhân gian nhóm từ ngữ rất hiện đại : “Bò cách ly”. Các nhà biên soạn từ điển thuộc nhóm Khoa học Xã hội ở Hà Nội nhớ đừng quên bổ túc thành ngữ mới đầy ý nghĩa nầy vào bộ Đại Từ Điển Tiếng Việt với ghi chú nơi xuất xứ : “từ nhà tù Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam !”
Trích trong Tác phẩm “Lưu Dấu Ngày Xưa” 
Tác giả Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích 


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.