Hôm nay,  

Y THƯ VÀ THƠ VĂN

10/05/201910:07:00(Xem: 3547)

Tôi gửi bài, góp mặt với tạp chí Văn Học khá muộn, vào năm 1986. Vẫn đón nhận những lá thư ngắn gửi qua bưu điện của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, khích lệ và thân tình chia sẻ những kinh nghiệm sáng tác cho lớp đi sau (như tôi). Tôi nói khá muộn vì trước đó tôi thường gửi truyện ngắn tới Đất Mới, Văn, Làng Văn… Tôi yêu thích Văn Học hơn các tạp chí khác, cộng tác khá đều đặn, tới tháng 12 năm 1990 vẫn còn “chung tình”. Bấy giờ chủ bút đã là Trịnh Y Thư.


Anh là ai? Ở xa tôi vẫn giữ một “ảo ảnh”. Không những chậm trễ khi đến với tạp chí Văn Học, tôi còn mù mờ thông tin, chậm lụt một vài thứ khác, vẫn thường lỡ biết bao chuyến xe. Thời gian gần đây, trong “phế tích” của trí nhớ bỗng nổi cộm tên tuổi cũ: Trịnh Y Thư. Người cao thủ biết môn công phu phân thân: Anh là nhà thơ, nhà văn, dịch giả, vẫn thường chơi guitar nhạc cổ điển và cũng đang tự mình đứng ra coi sóc nhà Văn Học Press tại California, Hoa Kỳ. Như thế, dẫu cho chậm bước, tôi tự nhủ, nếu không tìm cách lân la đến bên anh quả là một thiếu sót lớn. Có thể bạn sẽ trách tôi dùng “ảo ảnh” với “phế tích” trong câu trên là không chỉnh. Xin thưa: Tôi đã vay mượn chữ, “Phế Tích Của Ảo Ảnh” là nhan tập thơ của người tài hoa Trịnh Y Thư. Bạn có nhín chút thời gian để nhàn du cùng chúng tôi không? Xin vui lòng.


Hồ Đình Nghiêm (HĐN): Thân chào anh Trịnh Y Thư. Thân thể người ta chia ra làm ba phần: Đầu, mình, và tứ chi. Câu nầy nghe không ổn đối với trường hợp anh, mấy cụ bảo “ba đầu sáu tay” e chuẩn xác hơn? Nhiều nhà quá làm khó tôi, anh hãy vui vẻ cho phép tôi gọi đơn sơ một chữ Anh thôi nhé? Vừa giản tiện vừa bỏ bớt cái khách sáo.


Trịnh Y Thư (TYT): Thân chào anh Hồ Đình Nghiêm. Vâng, tôi nghe nói trong văn nghệ tất cả là anh-em, chứ không có chú-bác hay bất cứ một đẳng cấp nào khác. Thuở Trung học, lớp 12, môn Triết, tôi học thầy Nguyễn Xuân Hoàng. Sau này gặp lại anh, cùng sinh hoạt văn chương ở hải ngoại, tôi vẫn quen gọi anh bằng “thầy”, nhưng anh bảo tôi, “anh” được rồi, và tôi thấy thoải mái hơn nhiều. Về cái cụm từ “ba đầu sáu tay” thì chắc tôi không dám nhận, bởi lúc nào cũng cảm thấy mình yếu kém, cần học hỏi thêm. Múa may nhiều chiêu chỉ vì cái tật “đa mang” cố hữu. Chính vì cái tật này mà rốt cuộc chẳng cái gì đến nơi đến chốn.


HĐN: Điều trước tiên, tôi xem là quan trọng, cần đón nghe anh thổ lộ: Vào thế kỷ trước anh là một sinh viên đi du học, biến cố 1975 xẩy ra, có thể ví von “qua cầu rút ván”. Tâm trạng của anh lúc đó ra sao? Một người con đi xa có mong được trở về quê mẹ đang biền biệt khuất vào bóng tối đau thương?


TYT: Tuổi thơ tôi không có nhiều ngày vui, lẽ đương nhiên, bởi thế hệ tôi lớn lên trong lửa đạn chiến tranh trên quê hương. Nhưng tôi may mắn nhờ sự hy sinh vô bờ bến của cha mẹ nên không đến nỗi bất hạnh. Khi biến cố 30/4/1975 xảy ra, tôi vẫn đang ngồi ghế lớp học tại một ngôi trường đại học xa tít mù. Tâm trạng tôi lúc đó dĩ nhiên là hoang mang cực độ, không biết phải làm gì và thấy tương lai vô cùng mờ mịt. Ý nghĩ nung nấu trong đầu khi đó là: Thôi, đành phải rũ bỏ quê hương và quá khứ thôi, chẳng còn chọn lựa nào khác. Nhưng chúng ta ai cũng có quá khứ. Đối với những kẻ lìa bỏ quê hương ra đi khi đã có chút ý thức về đời sống, về nơi chốn mình sinh ra, cái quá khứ ấy trở nên nhọc nhằn, nặng nề gấp bội. Một quá khứ nặng khôn kham. Chúng ta khổ sở suốt đời vác nó trên lưng như con ốc sên vác cái vỏ cứng của nó. Nhưng nhìn vấn đề từ góc độ tích cực hơn, cái vỏ ốc đó đôi khi giúp chúng ta chui vào làm chỗ ẩn nấp che chở mỗi khi tâm hồn chúng ta dao động, hoang mang vì tâm trạng lưu vong hay lúc lên cơn khủng hoảng căn cước. Phần nhiều chúng ta sống với hai quê hương: cái hiện hữu thường ngày và cái sống trong ký ức. Điều đáng nói ở đây là sau một thời gian dài sinh sống nơi nước ngoài, cái đau hoài hương trong lòng chúng ta dần dà phai nhạt để nhường chỗ cho cái đau của sự lạ hoá. Sự việc biến thiên theo chiều nghịch đảo: cái thân quen biến thành cái xa lạ, và ngược lại. Trở về thăm viếng nơi mình sinh trưởng sau một thời gian dài xa cách, gần như ai cũng cảm thấy nỗi đau này. Nó lạ lùng một cách tàn bạo. Dù cố gắng cách mấy người ta vẫn không thể tự đánh lừa được cảm giác xa lạ, lạc lõng, tách rời. Mảnh đất nơi mình sinh ra biến thành nơi chốn khác, không còn là của mình nữa. Lịch sử của mảnh đất đó không có chỗ đứng cho mình, nó tàn nhẫn gạt mình ra ngoài lề. Lằn ranh biên giới giữa nhớ và quên như bị xoá sạch, không còn cái gì đáng nhớ, sự lãng quên như bị sai khiến bởi vô thức. Ký ức vẫn còn đấy trong bộ nhớ nhưng nó như bị ảo hoá, trở nên không thực. Sự lạ hoá này cũng thật là tàn bạo bởi cùng lúc nó để hiển lộ khía cạnh hiện sinh của thế giới con người: con người là sinh vật không có bản nguyên, căn tính của hắn không là cái gì bất di dịch. Hắn bị ném ra ngoài thế gian này mà không hề biết tại sao. Hắn như nhà phi hành đi bộ ngoài không gian bị đứt dây buộc với phi thuyền mẹ và cứ thế dật dờ trôi giạt mãi về khoảng không gian huyền tẫn mịt mù.


HĐN: Tôi vẫn nghĩ một người cầm bút, đa số thường vin vào một lực đẩy ban đầu. Anh có xem thơ văn, những gì mình viết ra, giúp cân bằng tinh thần hoặc lấp đi phần nào những hao hụt, trống vắng ở hoàn cảnh sống mới?


TYT: Tôi bắt đầu nghiệp văn rất trễ, ngoài ba mươi mới cầm bút, và suốt đời vẫn là một người cầm bút nghiệp dư, một amatơ. Vâng, đúng như anh nói, lúc đó dường như có một lực đẩy ban đầu cho tôi vin vào. Có thể do tôi mất niềm tin vào cuộc sống, cần tìm lối thoát; có thể cánh cửa duy nhất cho tôi tìm về quê hương ở hoàn cảnh lúc đó là cánh cửa chữ nghĩa tiếng mẹ. Nhưng dù gì chăng nữa, cánh cửa đó mở sẵn cho tôi bước vào, bởi văn chương từ thuở thiếu thời đã bám trụ tâm hồn tôi. Nhưng tôi không “vin” vào thơ văn để đứng dậy như nhà thơ nào đó tỏ bày tâm sự. Thơ văn cũng chẳng là cứu cánh trong cuộc đời tôi. Tôi rất sợ khi nghe người ta nói đến “sứ mệnh” của thơ văn. Qua chữ nghĩa và cảm xúc, tôi chỉ giản dị thấy một hiện hữu tâm hồn khác nằm lấp ló đằng sau cái hiện hữu thường ngày, và chính cái gì lấp ló, không định hình rõ rệt đó quyến rũ, thu hút tôi.


HĐN: Bài thơ “Bóng Tối” anh làm, với đoạn mở đầu:


Đường em đêm lầy trơn. Bóng tối

chụp lên vai mù toả con lộ đen

tôi bắt gặp tôi lần mò giữa

hố sâu mê hoảng. Trước mặt

những con đường vun vút về đâu.


Thưa anh, sau thế hệ anh, tôi; gần như chúng ta đứng giữa “con lộ đen”. Nhìn lui con đường chúng ta bước qua, hiu hắt một vài ánh lửa. Anh có từng buồn về một dòng chảy bị đứt đoạn? Nói rõ ra, những người trẻ tuổi hơn chúng ta, họ “vun vút ở những con đường khác” chẳng thèm đọc thơ văn Việt ngữ mình trải lòng? Mình đâm ra ngơ ngác? Về đâu là một dấu hỏi lớn? Mong được nghe anh tỏ bày.


TYT: Vâng, thưa anh, “về đâu” luôn luôn là câu hỏi siêu hình, có tính triết học. Thơ tôi hình như bị ám ảnh bởi những câu hỏi tương tự. Thế nhưng, chúng ta chẳng thể nào biết được những con đường ấy về đâu, bởi cuộc hành trình chúng ta đang dấn bước là cuộc hành trình vô hạn định, vô mục đích, như kẻ thất lạc trong sa mạc, và chỉ nhận ra điểm cuối khi chúng ta thấy cái huyệt mộ đen ngòm mở ra chờ đón chúng ta nằm xuống với thiên thu.


HĐN: Tôi vừa xem, rất lôi cuốn “Chuyện Tình” mà anh dàn dựng nên. Chuyện của một người đàn ông lớn tuổi dành cảm tình cho cô bé “hậu sinh khả uý”. Trong đoạn dẫn dắt câu chuyện ban đầu, anh viết: “…Tôi nhớ hôm đó tôi có cuốn sách mới in và lũ bạn văn nghệ tổ chức ra mắt sách cho tôi. Tự thâm tâm tôi biết cuốn sách chẳng ra gì, một thứ văn chương thời thượng, nhưng cái nếp ra mắt sách đã thành thông lệ ở miền đất này và phần thưởng duy nhất dành cho người viết sách là những lời tâng bốc lên tận mây xanh (nhưng cũng đầy giả trá).” Cho dù đó chỉ là “sản phẩm của tưởng tượng”, nó vẫn gieo cho người đọc nghĩ tới một hoạt cảnh trần trụi từng xẩy ra. Anh không ngại làm tổn thương những kẻ mang tâm hồn nhậy cảm? Phát sinh ra một ngộ nhận chẳng đáng có? Nhân vật “tôi” nọ mang bao nhiêu phần trăm hư cấu?


TYT: Cảm ơn anh nhắc đến truyện ngắn này của tôi. Thật ra tôi viết cái truyện đó lâu lắm rồi, đâu hồi năm 89 hay 90 gì đó, và in trong tập truyện Người đàn bà khác xuất bản năm 2010. Nhân vật “tôi” nọ mang 90 phần trăm hư cấu, anh ạ. Truyện ngắn này chứa đựng ít “vấn đề” nhất so với các truyện khác trong tập truyện, nhưng lại được nhiều người ưa thích. “Vấn đề” anh nêu ra –làm tổn thương những kẻ mang tâm hồn nhậy cảm – thật ra không đáng lo lắm đâu, bởi ai cũng nhìn ra sự thật. Tự bản chất, chuyện “ra mắt sách” không có gì xấu, nó chỉ là hình thức PR để quảng cáo. Tôi chỉ không chịu được khi phải nghe nhưng lời tâng bốc giả trá của diễn giả. (Giả trá hay thành thật, nghe biết liền, chẳng thể đóng kịch được).


HĐN: Người ta vẫn ca ngợi tài năng, cách dùng chữ của Ngọc Thứ Lang khi chuyển dịch cuốn tiểu thuyết “The Godfather” của Mario Puzo ra “Bố Già”. Anh là một dịch giả, với kinh nghiệm, anh có thể chia sẻ ít nhiều những khó khăn cần vượt qua khi tiếp cận một tác phẩm tiếng nước ngoài, hòng chuyển đổi sang Việt ngữ sao cho thật chín mùi, gợi cảm?


TYT: Trên các diễn đàn văn học đã có khá nhiều những nhận định sâu sắc và giá trị về dịch thuật văn học. Tựu trung, có hai xu hướng: hoặc trung thành với văn bản của nguyên tác; hoặc đặt trọng tâm vào yêu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch. Theo tôi, ở thời đại của chúng ta, quan niệm đúng đắn phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai xu hướng. Mặc dù những tôn chỉ chung chung như tín-đạt-nhã kềm chế người dịch, không cho hắn sa đà, nhưng người dịch không còn là kẻ “tra từ điển chuyên nghiệp” nữa. Có khoảng đất trống để hắn phô diễn nét tài hoa trong sáng tạo của mình. Câu hỏi được đặt ra là khoảng đất trống đó rộng rãi thong dong lắm không và có giới hạn nào không? Nếu anh là Bùi Giáng thì không giới hạn nào có thể ngăn trở anh được. Anh có thể “tương” vào cả chục câu lục bát rất ư là Bùi Giáng ngay giữa mạch truyện của nguyên tác. Sự can thiệp tới hạn của người dịch như thế hiển nhiên có thể làm nhiều vị học giả nghiêm túc cau mày khó chịu. Riêng tôi, tôi thấy thú vị bởi tôi đang thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải một cuốn sách y học. Nói như thế, dịch phẩm sẽ mang diện mạo của người dịch và điều đó góp phần không ít vào việc tiếp nhận của người đọc. Tôi không phủ nhận giá trị những dịch phẩm nghiêm chỉnh tuân thủ từng câu, từng chữ, từng dấu chấm dấu phết trong nguyên bản, nhưng tính Dionysian trong nghệ thuật bao giờ cũng hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn và tôi sẵn sàng hy sinh cái chân lý tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn.


HĐN: Sau Milan Kundera, sau Virginia Woolf, sau Charlotte Bronte, tác giả nổi tiếng nào được anh nhắm tới để bỏ công dịch, nhằm giới thiệu văn học ngoại quốc cho bạn bọc không thông thạo sinh ngữ thứ hai, ba?


TYT: Philip Roth, và có thể thêm một cuốn của Kundera, cuốn The Book of Laughter and Forgetting.


HĐN: Theo tôi biết, vào năm 2017 anh có chuyến đi thăm Hà Nội. Cảm nghĩ của anh về lần đi xa đó? Điều gì còn tồn đọng, chưa phai trong ký ức anh? Hoặc một nỗi ám ảnh, nếu có?


TYT: Thật ra tôi về Hà Nội nhiều lần vì tôi vẫn còn nhiều bà con dòng họ ở đó. Tôi có ghi nhận cảm nghĩ của mình về Hà Nội trong một bài ký in trong cuốn tạp bút Chỉ là đồ chơi xuất bản năm 2012. Với Hà Nội, tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng chẳng biết gì về nó. Chưa kịp có chút ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ. Kẻ lạ cũng là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Xin kể anh nghe một chuyện vui hoàn toàn có thật. Một hôm, ngay giữa Phố Cổ Hà Nội, từ trong một cửa tiệm tạp hoá bước ra, tôi chạm trán một bà cụ già. Bà liếc nhìn tôi rồi kêu lên: “Khiếp! Cái ông Tây này sao mà béo thế!” Tôi mỉm cười khẽ bảo cụ: “Thưa cụ, cháu là người Việt mình đấy ạ.” Bà cụ lại kêu lên: “Ơ, chúng mày ơi! Ông Tây này biết nói tiếng Việt!” Đấy, với Hà Nội, tôi là một ông Tây.


HĐN: Anh có từng khách quan nhận xét, so sánh sự khác biệt giữa trong, ngoài riêng ở mặt người viết, người đọc? Ở hải ngoại có kém sút, thua xa hay vượt trội?


TYT: Thật tình tôi không đủ khả năng và thẩm quyền để trả lời anh câu hỏi này. Tuy nhiên, tôi rất thích đọc Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương. Tạ Duy Anh, và đôi ba người khác. Điều đáng lưu ý là ở trong nước người đọc vẫn nhiều, công nghệ và kinh doanh ấn loát sách văn học tuy có sút giảm nhưng không đến nỗi chết thê thảm như ở hải ngoại. Cuốn Đời nhẹ khôn kham tôi dịch xuất bản năm 2018, đến nay đã tái bản lần thứ ba.


HĐN: Tôi tin chắc, anh là một người bận rộn. Giữa ba thể loại: Làm thơ, viết truyện ngắn, chuyển dịch tác phẩm ngoại quốc. Anh “mặn nồng” món gì nhất? Thích “ăn nằm” với thứ gì? Tôi hỏi thế vì cá nhân tôi thì mê được dịch tiểu thuyết ngoại quốc nhưng bất tài, chẳng am tường tiếng tây tiếng u, không thể trao hồn vía cho chữ nghĩa.


TYT: Tôi thích “ăn nằm” với cả ba, anh ạ. Như tôi trả lời anh ở câu đầu tiên, tôi là kẻ “đa mang”, cái gì cũng thích mân mó nhúng tay vào. Gần đây tôi còn viết “điểm sách”, nhưng đây chỉ là nhu cầu do làm xuất bản thôi chứ tôi không có tham vọng trở thành nhà phê bình. Hơn nữa, làm nhà phê bình sẽ mất bạn, tôi nghe ông Hoài Thanh bảo thế.


HĐN: Xin anh vui lòng nói qua một chút về Văn Học Press. Những khó khăn hoặc những tiêu chí mà Văn Học Press tự đề ra. Anh có quan ngại tới sự bành trướng khó chống đỡ mà internet đang hoành hành, nhà nhà đều chí thú cắm đầu cắm cổ vào? Điều đó khiến sách (in giấy) bị ghẻ lạnh, thua lỗ?


TYT: Thời đoạn vừa qua chúng ta chứng kiến sự chuyển đổi hệ hình có tính tất yếu trong văn học Việt Nam hải ngoại: gần như toàn bộ nền văn chương được đưa lên mạng. Kỳ thực, ít ai có chọn lựa nào khác trong hoàn cảnh một cộng đồng lưu vong, rời rạc, thiếu thốn. Mặc dù chưa phải là cái gì tuyệt hảo, bởi vẫn có những nhược điểm không tránh nổi, văn chương mạng giải quyết được nhiều vấn nạn, thí dụ như giúp thơ ca có chốn “nương tựa” vì nếu không, thơ không biết bám víu vào đâu để tiếp tục cuộc hành trình vô hạn định của mình. Và quả tình nó cũng bật mở nhiều khía cạnh thú vị khác, như sự ra đời và lớn mạnh của thể loại truyện chớp. Văn chương mạng đáp ứng được yêu cầu năng động của một thế giới đang bay với tốc độ ánh sáng. Nó sẽ ở lại với chúng ta trong thời gian lâu dài sắp tới, nếu không muốn nói là vĩnh viễn, dù anh có chấp nhận nó trong ngôi nhà riêng của mình hay không. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ người viết, tôi  không cảm thông trọn vẹn với một nền văn học hoàn toàn dựa vào Internet. Viết trên mạng giống như hành động ném viên sỏi xuống mặt hồ, viên sỏi biến mất tăm mà mặt hồ chỉ gợn lên dăm ba làn sóng nhỏ rồi lại lặng im như cũ. Có lẽ đó là bản chất của Internet. Với một liều lượng thông tin quá tải, cái gì cũng trở nên nhanh, ngắn, gọn. Như một món ăn nhanh, đọc xong quên ngay, thậm chí khi đọc cũng chỉ đọc lướt. Thêm nữa, văn chương mạng thiếu những công trình dài hơi, gần như không có tiểu thuyết, chất lượng bài vở không đều. Nói một cách ngắn gọn, Internet tốt cho mục đích thông tin hoặc diễn ngôn, tranh luận, nhưng quả tình không mấy tốt cho văn học. Sự thật là cầm cuốn sách trên tay đọc vẫn là cái thú của hầu hết chúng ta hiện nay khi đọc một tác phẩm tầm vóc. Tất cả những lý lẽ có tính biện chứng trên cộng thêm sự khuyến khích nhiệt tình của nhiều bằng hữu văn nghệ và các bậc đàn anh như nhà văn Ngô Thế Vinh trong thời gian qua đã khiến tôi uống thuốc liều quyết định gầy dựng lại nhà xuất bản Văn Học. Thêm một lý do nữa mà có thể xem là quyết định tối hậu cho đề án, đó chính là sự khả thi thành lập một NXB trong thời điểm này. Với phương tiện ấn loát và phát hành hiện đại theo sát nhịp đập kinh tế thị trường thế giới của các tập đoàn kinh doanh, việc thực hiện một NXB bỏ túi như thế không còn là cái gì bất khả như cách đây mươi năm. Nói như thế nhưng tôi không chủ trương quay về thời kỳ sách báo in giấy cách đây vài ba thập kỷ ở hải ngoại. Muốn cũng không được. Tôi chỉ mong ngành xuất bản được tái phục ở mức độ nào đó để hỗ trợ cho sinh hoạt mạng trong thực tế vẫn tiếp diễn. Vấn đề nhức nhối chính vẫn là người đọc. Ở thời đại thông tin điện tử, làm thế nào để người đọc chịu bỏ tiền ra mua sách văn chương về đọc là cả một vấn đề cam go. Người Việt là một dân tộc yêu thơ như người Nga, nhưng thi sĩ Nga sống được nhờ xuất bản thơ, còn thi sĩ Việt bỏ tiền túi in thơ chỉ để tặng bàn bè, thân hữu. Văn xuôi cũng chẳng khấm khá hơn bao nhiêu. Dù có tránh né, tế nhị bao nhiêu thì đó vẫn là sự thật, một sự thật khá đau lòng. Lý do vì sao thì đấy là cả một câu chuyện phức tạp, lôi thôi, chẳng dễ gì phân tích cho ngọn ngành trong một bài phỏng vấn ngắn.


HĐN: Anh thích chơi guitar. Anh đã từng mang đàn ra trình diễn trước đám đông? Và như thế, vì giai điệu trầm bổng, dồn dập sẽ dẫn dụ, khiến xuất hiện một “cô bé” khác. Và như vậy bạn đọc bốn phương được đọc thêm một chuyện tình ăn đứt Trương Chi Mỵ Nương, hình thành dưới giọng văn nửa hồn nhiên nửa vô ngại, chút thơ mộng chút lãng mạn được ký tên Trịnh Y Thư.


TYT: Thật ra tôi “mặn mà” với âm nhạc trước khi “ăn nằm” với văn chương, nhưng rất ít khi tôi xuất hiện chơi đàn trước công chúng vì “khớp” sân khấu. Trên sân khấu không bao giờ tôi đàn được một khúc nhạc đúng ý như khi đàn ở nhà một mình. Hơn nữa tôi cũng sớm nhận ra con đường âm nhạc nhiều chông gai quá, tôi không phải thiên tài, giỏi lắm chỉ là một anh “thầy đờn”,  bởi thế mặc dù được thụ giáo với nhiều diệu thủ ghi-ta thập niên 70, 80, cuối cùng tôi bỏ nghề.


HĐN: Tôi tự hứa với lòng, rằng nhà quê (chữ của Mai Thảo) thì cũng chừng mực nào đấy thôi, thế nào cũng đeo ba-lô đi bụi qua California một lần cho thoả. Nơi mà tôi quen biết bao người nhưng chưa một lần gặp mặt. Sẽ thực thụ đứng gõ cửa nhà anh để vào xin chén rượu nồng. Giấc mơ vẫn còn đó, thực tế bày ra là giờ này đành tạm “cắt sóng”. Cảm ơn anh Trịnh Y Thư đã vui lòng chuyện trò với một đứa ở xa như tôi. Những tâm sự của anh, dù chỉ phác hoạ ra một thời điểm, tâm tình ấy sẽ là tư liệu quý giúp cho những ai muốn hồi tưởng về sinh hoạt của người cầm bút tha phương. Tôi tin vậy và mến chúc anh luôn sức khoẻ, sáng tác được những điều tâm đắc.


TYT: Cảm ơn nhà văn Hồ Đình Nghiêm đã cho tôi cơ hội phát biểu linh tinh. Những gì tôi nói ở đây chẳng qua chỉ là ý kiến ý cò của một trong bảy tỉ khối óc trên mặt hành tinh này, chẳng có chi đáng nhớ.



Egyptian_Museum 028

Trịnh Y Thư – Ảnh tự chụp,

Egyptian Museum, San José, CA, 2019


– Hồ Đình Nghiêm

(Thực hiện bằng điện thư, tháng Năm, 2019.)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.