Hôm nay,  

Trại Tù Sơn La

21/05/201909:45:00(Xem: 6853)

  


Tặng kỵ binh Vũ Đình Lưu

Cuối cùng rồi cũng còn một thời để nhớ.


Sơn La nước độc giòng trong vắt

Trót hẹn cùng nhau một quãng đời

Thăm thẳm chín tầng sâu địa ngục

Chín tầng mòn mỏi cuộc rong chơi


Mênh mông chướng khí mờ Sơn La

Cái đói làm quên nổi nhớ nhà

Trĩu nặng trần ai thân lính thú

Mồ hoang …hoang lạnh dãy đồi xa


Nơi đây điểm hẹn bờ sinh tử

Dãy trại ven đồi vắng …vắng thêm

Nước độc rừng thiêng đêm chướng khí

Huyệt sâu xí xóa kiếp ưu phiền


Tinh sương ..cả trại tù lưu xứ

Chặt nứa trên ngàn khoán chỉ tiêu

Công điểm trọn ngày đôi củ sắn

Máu tuôn đá sắc mỏng tai mèo


Sơn La cũng có đoàn sơn nữ

Thắm đậm tình người nghĩa quới nhân

Lên núi chặt măng triền bát ngát

Cho anh từng ống nứa cơm lam


Chao ôi ! Vị nếp sao mà dẻo

Ngọt lịm bờ môi thắm nghĩa đời

Ví nếu hôm nào no một bữa

Cũng còn nhớ mãi trọn đời thôi


Chao ôi ! Bó nứa sao mà nặng ?

Chia sớt nhau từ những khúc quanh

Xuống núi cheo leo triền vực thẳm

Oằn vai phân nửa gánh ân tình


Những gái Mường kia giờ ở đâu ?

Gùi măng xuống núi trắng hoa đào

Sơn La đất chết tình sao đẹp

Mãn kiếp lưu đày cũng nhớ nhau


Hồ Thanh Nhã 


Nằm ở trung tâm thành phố Sơn La và cách biên giới Lào chừng 45 cây số , nhà tù Sơn La được người Pháp xây dựng năm 1908 để giam giữ những người làm cách mạng VN. Về sau khi phong trào Cộng sản nổi lên thì dùng để giam giữ những lãnh tụ Cộng sản như Trường Chinh , Lê Duẩn , Tô Hiệu …Sau năm 1975 thì chánh quyền Hà Nội dùng làm nơi giam giữ thành phần ngụy quyền , ngụy quân mà chánh quyền Hà Nội gọi là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân . Thành phần nầy được chuyển ra Bắc từ các trại cải tạo rải rác khắp nơi ở miền Nam , sau khi chánh quyền Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm1975.

Nằm trên đồi Khau Cả , gần trung tâm thành phố Sơn La , nhà tù nầy là một trong những nhà tù khắc nghiệt nhất Việt Nam lúc bấy giờ .Chánh quyền Hà Nội dùng nơi nầy để trả thù những người chiến bại không có tấc sắt trong tay . Khí hậu khắc nghiệt với những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc gây nên cái nóng như thiêu đốt vào mùa Hè và những đợt sương muối tạo ra cái lạnh thấu xương vào mùa Đông .Kết hợp vào đó là chế độ ăn uống thiếu thốn , kham khổ , quần áo ấm không có , thuốc men hạn chế  , đã giết lần mòn thể xác lẫn tinh thần các tù nhân cải tạo .Mùa Đông năm 1976 , khí hậu ở Sơn La cực kỳ lạnh buốt , mà trước đó một năm , toàn thể các trại tù ở miền Nam không cho thân nhân thăm nuôi tù nhân . Do đó khi bất ngờ bị chuyển trại ra Bắc , không có tù nhân nào có đủ áo quần ấm và thuốc men dự phòng , nên phần nhiều tù nhân lớn tuổi , có bịnh trước đã bỏ mạng ở trại tù Sơn La nầy . Khi có người chết , các người tù còn sống bó xác người xấu số vào các manh chiếu rách , khiên xác họ ra các ngọn đồi cạnh trại chôn cất , cho xong một kiếp tù đày . Không quan  tài , mộ bia , nhang đèn gì cả Thật là ngậm ngùi , tủi thân cho một người tù bên thua cuộc .Vài chục năm sau , có người tù cũ trở về đất Bắc –Sơn La –dắt theo đứa con trai của người bạn tù xấu số năm xưa . Họ trở lại vùng đất ngục tù năm xưa để tìm mộ và hốt cốt người tù xấu số . Xin mời thưởng thức bài thơ Tìm mộ . Bài thơ nầy đã được nhạc sĩ Hào Quốc ở Canada phổ nhạc , như sau:


Tìm mộ


Người tù trở về thăm đất Bắc

Đồi sắn mênh mông ngã bóng chiều

Con suối hình như giờ cạn lại

Mỏi mòn mạch nước cũng khô theo


Anh nằm giữa đỉnh đồi hoang vắng

Mát rượi tàng cây dưới bóng sao

Con suối vòng cung qua mấy trại

Nhảy tung bọt sóng tháng mưa rào


Sơn La nước độc ma rừng thiêng

Sương muối chiều hôm phủ khắp triền

Hơi thở tưởng chừng như đặc lại

Nặng nề buồng phổi héo vành tim


Anh đến Sơn La rồi ở lại

Bạn bè sau đó cũng về Nam

Chiều nay trở lại tìm anh đó

Chớp mắt qua rồi mấy chục năm


Cây sao cổ thụ giờ đâu mất

Còn chỉ mênh mông sắn phủ đồi

Cách ngã ba nầy trăm rưởi thước

Mồ hoang viễn xứ lạnh mưa rơi


Gốc cây mục nát lên tầng nấm

Càng quạnh hiu thêm lũ mối càng

Cả khúc cây rừng còn gậm nát

Huống hồ xương trắng gió mưa chan


Năm xưa bẻ tạm ba que nhỏ

Làm nén hương lòng tiễn bạn đi

Gạo muối cũng không lòng thấy trống

Tủi thân manh chiếu rách đôi lề


Tôi dắt con anh trở lại đây

Mênh mông nghĩa tận khói hương dầy

Về Nam hương hoả mồ yên tịnh

Chắc cũng còn hơn thổ trạch nầy


 Hồ Thanh Nhã




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.