Hôm nay,  

Thăm Lại Kuku

24/05/201910:09:00(Xem: 5671)

Thật ra, Kuku không phải là tên một đảo như nhiều người vẫn thường nghĩ. Bạn sẽ không tìm thấy nó trên Google Map hoặc bản đồ chính thức của Indonesia. Đơn giản vì Kuku là tên gọi mà dân địa phương đặt cho bãi biển của đảo Jemaya trong quần đảo Anambas, chứ không phải là một địa danh hành chánh trên giấy tờ.

Nhưng đối với hàng ngàn thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam từng đến đây hơn 30 năm trước, Kuku lại là một cái tên đồng nghĩa với sự sống và tự do. Nó là một vùng kỷ niệm của đời người, nơi đau khổ gặp gỡ yêu thương, nơi tuyệt lộ ươm mầm hy vọng, nơi những mảnh đời ly tán bỗng cùng chia sẻ với nhau những chén cơm Cao ủy trong những căn barracks tạm bợ mà ràn rụa nước mắt ân tình sau chuyến hải hành mười phần chết chín.

Một số đồng bào đã vĩnh viễn nằm lại ở vùng này vì nhiều lý do: bão tố, đói khát, bệnh tật...

Kuku 2019

Những bước chân trở lại…


Từ vài năm qua,  sau những chuyến mở đường do Văn khố Thuyền nhân Việt Nam thực hiện từ năm 2005, nhiều nhóm nhỏ từ các nước định cư trên khắp thế giới đã lần lượt tìm về con đường ký ức này. Để sống lại kỷ niệm cũ, để thắp nén nhang cho những người bạn đồng thuyền trên đường đi không đến, để nhớ ơn những tổ chức cứu trợ quốc tế và người dân địa phương chân chất từng cưu mang họ trong hoàn cảnh ngặt nghèo…

Tháng 4/2019 vừa qua, một nhóm thân hữu (đa số là từ Sydney – Australia) đã thực hiện một chuyến đi như thế. Mời các bạn cùng chia sẻ với họ những hình ảnh ghi lại trong chuyến đi.

Kuku Island


Làng chài Letung, nơi “đóng quân” của nhóm. Đây là thị trấn chính của đảo Jemaya, cách bãi Kuku 45 phút ghe máy và chỉ có khoảng chục ngàn dân. Trước đây, muốn đến Letung bạn phải đi phà khách đến 8 giờ từ Tanjung Penang. Bây giờ, Letung vừa mở phi trường nội địa, rất nhanh chóng và tiện lợi.

Phía xa xa là đảo Berhala, trước đây người tỵ nạn VN đặt tên là “đảo ruồi”, từng là nơi tạm trú của hàng ngàn thuyền nhân trong nhiều năm. Hồi đó, vào lúc nước ròng, bạn có thể lội bộ sang Letung để đi chợ hoặc gửi thư. Bây giờ, một chiếc cầu đúc đã được xây dựng nối liền hai đảo.

Kuku


Letung ban ngày là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, nhưng Letung ban đêm cũng là nguồn khai thác thú vị cho những người săn ảnh… Một lời khuyên thiệt tình cho những người đến sau: cẩn thận khi... nhậu nhẹt, vì phần lớn nhà ở đây được xây trên cột chống lấn ra bãi, xỉn là té xuống nước lúc nào không hay.

Kuku


“Tổng hành dinh” cũng là nhà trọ của nhóm là Quán Bà Béo, một phụ nữ Nam Dương vui tính và thân thiện. Quán có những món đặc sản địa phương rất bắt mồi nhưng bạn cũng có thể xăn tay vào nhà bếp để tự làm bữa ăn cho hợp khẩu vị của mình.

Trong hơn 10 năm qua, đây là địa chỉ quen thuộc của những nhóm người Việt về thăm Kuku. Nhờ vậy, Bà Béo cũng làm ăn khấm khá ra. Nhà trọ của bà có 12 phòng đôi (và chỗ ngủ bên ngoài thì... tha hồ), sạch sẽ, rộng rãi và giá cả rất mềm. Bà cũng có thể lo luôn các khoản thuê mướn ghe máy, công nhân... giúp cho bạn nếu có yêu cầu.

Kuku


Mỗi lần đến Letung, chúng tôi thường ghé thăm và tặng quà cho các em học sinh tiểu học trên đảo, lúc thì quần áo, sách vở hoặc khi khác là dụng cụ thể thao, bánh kẹo... Các em rất ngoan ngoãn, lễ phép và không làm phiền những người khách "lâu lâu một lần" ghé lại hòn đảo xa lắc này.

Kuku


Đổ bộ lên Kuku: từ "cá lớn", từng tốp nhỏ “thuyền nhân trở lại” được đưa vào bờ bằng những chiếc taxi để tránh đá ngầm. Tài công là ngư dân địa phương nên họ rất rành rẽ về con nước và những điểm nguy hiểm khi cập bờ. Chính tại những bãi này năm xưa, một số thuyền vượt biên đã bị chìm vì đụng đá ngầm hoặc cuốn vào vòng nước xóay.

Kuku 2019


Sống lại cảm giác "ủi bãi" ngày xưa, nhưng bây giờ là ban ngày, không có công an rượt bắn và hải tặc cướp bóc...

Kuku 2019


Các “cựu Kuku” khó có thể hình dung được trảng cỏ này từng là nơi sinh hoạt của hàng ngàn thuyền nhân tấp vào đây mấy chục năm trước. Các dãy baracks, kho tiếp liệu, bệnh xá, văn phòng Cao ủy... đều nằm ở đây. Sau khi trại tạm cư này đóng cửa, tất cả đều bị đốt rụi như một biện pháp tổng vệ sinh trên đảo.

Kuku 2019


Lội rừng lên đồi trực thăng, điểm cao nhất của Kuku và cũng là nơi mai táng nhiều thuyền nhân tỵ nạn VN, để góp lời cầu nguyện cho những đồng bào không may...

 

 

Kuku 2019

 

Kuku 2019

Hoạt cảnh “Đêm chôn dầu vượt biển” được diễn lại ngay trên Kuku…

Kuku 2019

Và tập chèo thuyền để tính chuyện... vượt biên lần nữa!

Kuku 2019


Từ Letung, nhóm cũng đã có dịp đến thăm vài hòn đảo nhỏ lân cận từng lưu lại dấu chân của thuyền nhân VN như Air Raya, Keramut... Vài bài kinh, dăm nén nhang tưởng nhớ gửi đến những bạn đồng thuyền trên "đường đi không đến".

 

Kuku 2019

 

Hình ảnh Kuku và Galang còn nhiều, nhưng… sức trang có hạn. Hẹn tái ngộ với các bạn tại Phóng sự bằng hình “Bidong bây giờ” trong phần kế tiếp.

Bài viết: Lưu Dân 
Hình ảnh: Tôn Thất Vinh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.