Hôm nay,  

Di vật!

10/06/201910:06:00(Xem: 4564)
  1. Chiếc nhẫn và sợi dây chuyền: di vật thời Đức Quốc Xã!


Danh từ Hán Việt. Di là còn lại, vật là đồ vật. Như vậy ‘di vật’ là: đồ vật của người đã khuất để lại.

Mới đây, Viện Bảo Tàng, ‘the Auschwitz Birkenau State Museum’ của Ba Lan, trong bộ sưu tập gồm 12 ngàn vừa tách, tô, dĩa của những tù nhân người Do Thái bị giết hại tại những Trại Tập Trung của Đức Quốc Xã từ năm 1940 đến năm 1945, tình cờ phát hiện ra một chiếc nhẫn và một sợi dây chuyền bằng vàng của một phụ nữ vô danh, được giấu dưới đáy giả của một cái tách. Người ta dùng X Ray mới phát hiện hai di vật bi thảm nầy còn nằm trong đó.


Ai là chủ nhân? Không có manh mối nào để lần ra được hết, chỉ biết rằng số nữ trang nầy đã được chế tác tại Ba Lan từ năm 1921 đến năm 1931.

Chủ nhân chiếc tách nầy đã biết việc Đức Quốc Xã trục xuất họ ra khỏi nhà, cho phép mang theo hành lý, tư trang (dĩ nhiên chúng thừa biết nạn nhân sẽ mang theo những món đồ có giá trị nhứt). Chúng sẽ giết người rồi cướp của; nghĩa là họ biết chắc chắn sẽ chết nhưng vẫn hy vọng là giấu kỹ những vật nầy đi (không cho nó lọt vào tay kẻ cướp), thì dù mình đã bị giết chết, nó vẫn còn là một chứng tích cho tương lai.


Câu hỏi đặt ra là: Viện Bảo Tàng có nên giữ lại để trưng bày hay tìm kiếm cho được thân nhân người đã mất để trao lại cho họ? Nhưng biết ai đâu mà tìm, thì thôi coi như di vật của người đã chết tức tưởi vì Phát xít trở thành kỷ vật cho cả đời sau vậy.

Từ di vật đối với Viện Bảo Tàng nó trở thành kỷ vật, tức vật kỷ niệm của những gia đình đã bị mất người thân. Nó gợi lại một trang sử bi thảm của Thế chiến thứ hai!


Thuở đó, từ khắp các nước châu Âu bị Đức chiếm đóng, nhiều đoàn tàu hỏa đưa người Do Thái đến Trại Tập Trung Auschwitz, cách thủ đô Warszawa của Ba Lan 286 km. Đoàn tù nhân Do Thái khốn khổ nầy, sau khi xuống tàu, được lịnh đứng sang bên phải nghĩa là họ đã được chọn làm tù nhân lao động khổ sai, sống một đời nô lệ, còn tệ hơn súc vật!


Ngày lao động khổ sai bắt đầu từ 4: 30 sáng, kéo dài 12 tiếng để phục vụ cho guồng máy chiến tranh khổng lồ của Đức Quốc Xã. Cứ năm người xếp thành một tổ. Áo tù kẻ sọc, số tù xăm trên cánh tay, không đồ lót, mang những đôi giày gỗ kích cỡ không phù hợp, không tất, đến lao động quần quật tại khu khai thác sỏi và bãi gỗ. Buổi sáng tù nhân được đồ uống nóng, nhưng không có đồ ăn; bữa trưa là một tô canh rau lỏng bỏng không thịt, và buổi tối là một lát bánh mì mốc. Thực phẩm ăn mỗi ngày cung cấp không quá 700 calo nên rất nhiều người đã chết vì đói khát và bệnh tật.

Đó là ăn; còn ngủ thì từ 800 đến 1,000 người nhồi nhét trong những gian phòng như chuồng nhốt súc vật. Không thể nào duỗi người hoàn toàn, chân của người này đặt lên đầu, cổ hay ngực của người kia.


Đám tù nhân được lịnh đứng qua bên trái, vì có của nhưng không có sức lao động (đa phần là phụ nữ, trẻ con và người già) thì xấu số hơn, bị bọn SS giết hàng loạt trong phòng hơi ngạt để cướp của!


Theo lịnh của bọn sĩ quan SS, các nạn nhân cởi bỏ quần áo ở phòng ngoài đi tắm rửa để tẩy trừ chấy rận mà không biết rằng mình đang bước vào phòng hơi ngạt, được ngụy trang như phòng tắm. Khi những cánh cửa đóng chặt lại, bọn lính SS đổ Zyklon B, một loại thuốc trừ sâu cực độc, vào phòng qua các lỗ thông trên mái hoặc lỗ hổng trên tường.

Các nạn nhân ngoắc ngoải chết trong vòng 20 phút. Bên ngoài có thể nghe thấy những tiếng la hét, kêu khóc ầm ĩ dù đã bị những bức tường bê tông dày ngăn bớt. Nhằm làm giảm thiểu tiếng kêu khóc, hai động cơ xe gắn máy đặt gần đó được rồ hết ga; tuy vậy vẫn có thể nghe thấy những tiếng la hét thảm thiết rồi lịm tắt dần.

Xong, lính SS đeo mặt nạ phòng độc vào phòng, lôi các thi thể ra. Kính mắt, đồ trang sức, tóc, và răng vàng của nạn nhân bị cướp đi. Nhiều tên lính và sĩ quan SS của trại đã ăn cắp bớt tài sản của tù nhân bị tịch thu.

Xác chết bị đem đi đốt trong các lò thiêu gần đó;  tro cốt thì bị chôn vùi, vứt xuống sông hoặc dùng làm phân bón để hòng che giấu tội ác man rợ nầy.


Dân Do Thái ở Châu Âu khoảng 11 triệu người, đã có khoảng 6 triệu người bị giết trong thảm sát Holocaust. Auschwitz, đã trở thành một biểu tượng chính của Holocaust, là di sản của thế giới!

Vâng những di vật đó không chỉ là vật kỷ niệm mà còn là một vật chứng tố cáo tội ác diệt chủng của bọn Phát xít trước lương tâm của toàn nhân loại.


2. Poncho: di vật thời chinh chiến!


Trở về với chiến tranh Việt Nam, chúng ta, những người lính thua trận, cũng chịu một phần số bi thảm không kém dân Do Thái, cũng có những di vật là vật chứng về một thời điêu linh của dân tộc.

Trước năm 1975, hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam, đến 18 tuổi, kẻ trước người sau, lần lượt rời ghế nhà trường để khoác lên mình áo lính.


Trong những quân trang, quân dụng còn sót lại sau cuộc chiến tàn khốc nầy không thể không kể tới tấm ‘poncho’ màu ô-liu, dùng để đi mưa.

Khi vượt sông, người lính dùng tấm poncho gói tất cả ba lô, quân trang quân dụng, cột túm lại để trở thành cái phao mà vượt qua dòng nước. 

Tấm poncho còn thay thế chiếc mền đắp trong đêm khuya lạnh lẽo giữa núi non trùng điệp hay vùng đồng không mông quạnh.

Cần hứng nước để uống, người lính đào một cái hố, phủ poncho lên trên cho lõm xuống, tạo thành một cái giếng cạn để hứng những giọt sương đêm, nếu gặp may, một cơn mưa bất ngờ nào chợt đến để hứng nước.

Nhưng poncho còn là di vật đau buồn nhứt của đời lính, khi nó được dùng làm tấm vải liệm, gói thân người chiến sĩ bỏ mình trên bãi chiến trường ác liệt vừa tan khói súng.


  1. Lon ‘Gô”: di vật thời tù cải tạo!

Sữa Guigoz của Hòa Lan được nhập vào Việt Nam những năm 60.

Có hai loại sữa Guigoz, loại trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu vàng cho một tuổi trở đi. Loại sữa bột nầy đựng trong chiếc lon nhôm, dung tích 0.75 lít, đường kính 8cm, cao 15cm, thân hộp có nổi sọc ngang để cầm không bị tuột.

Vì lon làm bằng nhôm nên rất nhẹ, không bị rỉ sét, nắp lon Guigoz đậy rất kín, bền chắc, khó móp méo, hư hỏng nên được các bà nội trợ giữ lon không lại để đựng đường, muối, tiêu, hành, tỏi, ớt hay các thức ăn khô.

Khi chồng, con hay người yêu đi lính, chiếc lon Guigoz nầy được vợ, má hay em yêu dùng để đựng cá, thịt chà bông, tép rang, mắm ruốc sả xào thịt ba rọi cho những người thân yêu của mình ăn giặm thêm, ngoài cá mối hay thịt heo nái dai như giẻ rách ở nhà bàn của quân trường.

Tàn cuộc chiến, những người lính sa cơ bị bắt đi tù cải tạo suốt từ Nam ra Bắc thì chiếc lon Guigoz nầy cũng bị ở tù theo.

Cái tên Guigoz của một thời thanh bình cũ cũng tàn, phai mất chữ ‘Gui’ chỉ còn lại lon goz (‘gô’), là vật bất ly thân của những phận tù không biết được ngày ra.

Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng lon ‘gô’ làm gàu. Sáng thức dậy dùng lon ‘gô’ làm ca đựng nước súc miệng. Dùng lon ‘gô’ làm ấm đun nước sôi lên bỏ vào mấy hạt bo bo hay bắp đã rang cháy khét để thay thế nước trà.

Lon gô nầy ngoài nấu nước, nấu cơm, luộc măng rừng, luộc rau, luộc khoai mì, còn dùng để đựng một nắm rau tàu bay, một con cóc, nhái, ễnh ương, bù tọt, hay bất cứ con gì động đậy, để chiều về còn có cái ăn thêm cho đỡ đói.

Ngày ra trại, người lính thất trận ngày xưa, chung thủy mang theo hành trang của mình cũng là lon ‘gô’ dù bây giờ đã sau bao năm tù rạc, lon ‘gô’ đã móp méo như  cuộc đời của chính chúng ta.


Đó là di vật một thời bị đày ải, bị lăng nhục, bị trả thù cho đến chết, mà người lính chúng ta may mắn vẫn còn sống sót qua cuộc biển dâu nầy không thể nào quên.


Vâng, cái poncho thời chinh chiến, cái lon ‘gô’ thời tù cải tạo, những di vật đó dù bây giờ không ai trong chúng ta cần tới nữa! Nhưng di vật không phải là vật vô tri, vô giác, vô hồn… mà nó vô giá! Nó nhắc nhớ chúng ta đã một thời làm lính trận!


Đoàn Xuân Thu

Melbourne

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.