Hôm nay,  

Mùa Hạ

29/06/201918:59:00(Xem: 5975)

Hồ Thanh Nhã

 

                        Mùa Hạ

 

Hạ về Cali có hoa phượng tím

Tan sở anh về đường vắng mưa bay

Cánh hoa tím rụng trên cần quạt nước

Một vòng quay…tan biến giấc mơ dài

 

Cô bé học trò sau lưng mang cặp

Tay đong đưa trên lối nhỏ bộ hành

Cánh phượng rụng bờ vai theo đợt gió

Tóc đuôi gà phơ phất…lướt patin

 

Hạ về Cali có cơn gió nóng

Vườn sê ri chín đỏ trĩu trên cành

Anh cảm thấy dịu dần cơn khát nước

Mảnh mây trời bàng bạc một màu xanh

 

Hạ về quê hương có hoa phượng đỏ

Có tiếng ve sầu dỗ giấc ngủ trưa

Cô gái nhỏ chờ ai tan buổi học ?

Tay mân mê vành nón lá hững hờ

 

Con đường nầy anh đi từ thuở bé

Mà hôm nay sao quá đỗi bồi hồi

Hàng phượng đỏ bây giờ thành cổ thụ

Mà tâm tình chi khác thuở đôi mươi

 

Hạ về quê hương có đầm sen trắng

Hương thơm lan từ nhụy đọng sương trong

Có một cánh diều lẻ loi trong gió

Chiều mênh mông qua làn khói đốt đồng

 

Hạ về quê hương có đôi chim sắc

Làm tổ mái đình ngói bám rêu xanh

Bầy chim non nôn nao chờ bóng mẹ

Mẹ lâu về bóng tối sắp vây quanh

 

Hạ về trong tôi chùm hoa hai sắc

Màu đỏ thân thương lứa tuổi học trò

Tím tuổi hoàng hôn mây bay gió cuốn

Giòng sông xưa nhô nhấp nước đôi bờ…

 

 

 

               Hoa phượng tím Jacaranda ở Nam California.

 

Hoa phượng đỏ nở báo hiệu mùa Hè đang tới ở quê hương Việt Nam. Nhưng tại Mỹ nhất là ở nam California thì mùa Hè về khi ta thấy hoa phượng tím nở rộ ven đường phố Nam California. Phượng tím có tên khoa học là hoa Jacaranda. Đó là một cây to có hoa màu tím phát xuất từ Nam và Trung Mỹ. Được trồng nhiều ở California và Florida. Vào mùa hè ta cũng thấy loại hoa nầy trên vài con đường ở thành phố Đà Lạt, thành phố mộng mơ của Việt Nam. Ở Nam California người ta trồng nó ven đường làm bóng mát và những nơi công cộng như công viên, trường học...

Mùa Hè là mùa thi, mùa ra trường của các trường Trung học, Đại học, cũng là mùa hoa phượng tím nở rộ khắp các đường phố ở Nam California. nhiều con đường ta thấy phủ toàn một màu tím rất thơ mộng. Hoa tím giăng giăng rơi rụng khắp phố. Nhiều người yêu thích loài hoa phượng tím Jacaranda, nhưng cũng có người không thích vì loại hoa nầy có chất keo, thường rụng bám vào xe, để lại vết dơ khó chùi sạch. Nhà nào có trồng cây phượng tím trước nhà thường phàn nàn vì hoa rụng đầy sân, rất cực khi quét dọn.

                   Những chiếc mũ đen tung lên

                    Dưới tàng hoa phượng tím …

Hai câu thơ trên kể về chuyện tình ngày xưa của một bà giáo già. Chàng và nàng cùng học chung và cùng tốt nghiệp vào một ngày Hè ở Đại học Irvine – nam California (Đại học UCI). Họ yêu nhau và thành hôn sau đó. Khi đứa con gái đầu lòng của họ tròn tuổi thôi nôi thì người cha bị động viên vào quân ngũ, được gởi sang chiến trường Việt Nam và vĩnh viễn nằm lại ở miền đất xa xôi nầy. Cái chết của chàng trai để lại cho người vợ trẻ và đứa con thơ những nổi đau không bao giờ hàn gắn được. Niềm đau đó kéo dài nhiều chục năm sau cho tới ngày người vợ trẻ ngày xưa bây giờ trở thành bà giáo già tới tuổi  hưu. Người con gái có gia đình ở xa và bà giáo già cô độc đi vào nhà dưỡng lão. Chiếc Taxi đã đưa bà già ghé thăm lại những nơi còn để lại trong lòng bà những dấu ấn không bao giờ quên được như : mái trường cũ, ngôi giáo đường, bến tàu nơi tiễn người chiến sĩ lên đường đến chiến trường Việt Nam, bức tường đá đen …Và chặng cuối của đời bà giáo già …là nhà dưỡng lão :

 

 

                                Chặng cuối

Chiếc Taxi đưa bà giáo già

Vào nhà dưỡng lão

Ghé lại ngôi trường tiểu học ngoại ô

Bà lão thấy gì đây !

Tường rêu lá úa

Cô bé sún răng cười toét nhảy cò cò

Con bé lớn dần

Chiều sương sớm gió

Có những ngôi trường qua suốt tuổi thơ

Cũng có bạn bè đổi trường đổi lớp

Bạn hữu đi rồi

Cũng có người ở lại

Ở lại trọn đời chung bước chung đôi

Những chiếc mũ đen tung lên

Dưới tàng hoa phượng tím

Nụ cười tươi ngời sáng buổi ra trường

Chiếc Taxi rẽ vào giáo đường lặng lẻ

Ở đó ngày xưa

Ừ nhỉ ngày xưa !

Hai bóng song song quì bên tượng chúa

Ngày tân hôn đẹp sắc nắng hoàng hôn

Năm tháng đi qua

Chan hòa hạnh phúc

Đứa con gái chào đời quá đổi là vui

Ngày con bé thôi nôi

Người cha bước vào quân ngũ

Từ đấy chia xa

Từ đấy ngậm ngùi

Chiếc Taxi đưa tiếp cụ bà ra bến tàu lộng gió

Mẹ bồng con đưa tiễn người đi

Lớp lớp người trai cùng đi ra biển

Cùng đến chiến trường

Xa tít Việt Nam

Hai chữ Việt Nam

Như lời nguyền trên đá

Mà ngàn người trai đi mãi không về

Quan tài đi bên

Hai hàng lính gác

Gói kỹ vật về lại gia đình

Mờ nhạt dấu quân bưu

Người trở về

Có khi chỉ là cái tên

Có khắc năm sinh và ngày mất tích

Tường đá đen sừng sững lạnh lùng

Năm mươi tám ngàn tên người chi chít

Ngần ấy gia đình

Vĩnh viễn chia xa

Những bàn tay trẻ thơ mò mẩm kiếm tên cha

Vết khắc còn sâu trên mặt đá

Tê tái lớp da ngà

Đứa bé lên ba

Bên tiếng nấc nghẹn ngào người mẹ

Ôi chiến tranh !

Dấu chấm than lạnh lùng áo não

Chiếc Taxi dừng trước nhà dưỡng lão

Bà cụ bước xuống xe

Chặng cuối đây rồi !

Bà đứng bồi hồi

Đảo mắt nhìn quanh

Lá úa mùa thu bay lả tả bên thềm

Trong ví còn bao nhiêu tiền

Bà đưa hết cho người tài xế

Cười hiền hòa : cầm lấy mà tiêu !

Tôi không cần nữa đâu

Chặng cuối đây rồi !

Người tài xế đứng ngậm ngùi

Cho tới khi bóng bà cụ già khuất sau cánh cửa …

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.