Hôm nay,  

Cái Cười

06/07/201901:34:00(Xem: 5054)
1.

Nhà văn Võ Phiến, trong một tùy bút viết năm 1967, tỏ ý thắc mắc tại sao trong văn học của ta lẫn tàu đều thiếu vắng tiếng cười. Ông bảo nếu dựa trên sách vở mà nói thì đó là những dân tộc không biết cười. Ông viết như sau:

“Văn học Trung Hoa từ xưa tới nay phong phú vô kể: muốn tìm trong đó thơ văn lâm ly thống thiết, không thiếu gì; muốn tìm những truyện ly kỳ quái đản, cũng không thiếu gì; thậm chí muốn tìm những cái tục tĩu (tức cái phát kiến rất mới mẻ của Âu Tây) thì tưởng Kim Bình Mai cũng cống hiến được nhiều đoạn không hổ thẹn với các danh phẩm của Lawrence, Miller… Thế nhưng bị yêu cầu xuất trình một tác phẩm hoạt kê, trào lộng cho có giá trị, chắc chắn cả ta lẫn tàu đều lúng túng.

Những nhân vật nổi tiếng của chúng ta – xuất hiện từ trang sách mà ra – dù nghèo, dù giàu, dù khôn, dù dại, dù thiện, dù ác, đều không có gì đáng cười: Lục Vân Tiên, Thúy Kiều, Thôi Oanh Oanh, Tống Giang, v.v…”

Lạ chứ! Một dân tộc không biết cười? Nhưng có thật thế không?

Giở cuốn từ điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ ra xem, tôi thấy có cả thảy 91 từ mục về cái cười: cười ầm, cười ba ngoe, cười bao biếm, cười bả lả, cười bí hiểm, cười bỡn, cười cắm cắt, cười cợt, cười chê, cười chớt nhả, cười chúm chím, cười giã lã, cười dài, cười duyên, cười đùa, cười gay, cười gằn, cười gượng, cười giả dối, cười giòn, cười ghê rợn, cười hả hả, cười hả hê, cười hắt hắt, cười hề hà, cười hề hề, cười hì hì, cười hỉnh, cười hỏm hỉnh, cười hồn nhiên, cười hùn, cười huề, cười khà, cười khan, cười khảy, cười khanh khách, cười khì, cười khinh khỉnh, cười khoái trá, cười khúc khích, cười lả lơi, cười lanh lảnh, cười lạt, cười lão, cười lẳng, cười lén, cười lỏn lẻn, cười man rợ, cười mát, cười mỉa, cười miếng chi, cười mỉm, cười mơn, cười mũi, cười múm mím, cười nụ, cười ngặt nghẹo,  cười ngất, cười ngoại giao, cười ngỏn ngoẻn, cười nghiêng ngửa, cười nhạo, cười nhoẻn, cười phì, cười quỷ quyệt, cười ra nước mắt, cười ranh mãnh, cười rặc rặc, cười rộ, cười rúc rích, cười rùm, cười ruồi, cười sặc sụa, cười sằng sặc, cười sâu sắc, cười tích toát, cười tình, cười toe toét, cười tít mắt, cười tủm tỉm, cười thầm, cười thích thú, cười thỏa mãn, cười trây, cười trời, cười vang, cười vỡ bụng, cười xã giao, cười xều xào, cười xòa, cười xộ.

Gần một trăm kiểu cười khác nhau! Không chừng từ hơn nửa thế kỷ qua có thêm nhiều kiểu cười khác mà ông Lê không biết, hoặc chưa biết, để ghi vào cuốn từ điển của ông. Một dân tộc có nhiều kiểu cười như thế thì không thể bảo là không biết cười. Thơ văn ta (và cả tàu, theo lời ông Võ) không có tiếng cười, lỗi ấy ở các nhà làm văn, làm thơ, chứ dân ta thì chắc chắn biết cười và cười nhiều là đằng khác. Trong dân gian không lúc nào thiếu tiếng cười, ngay cả ở những giây phút, tình huống thống khổ, ngặt nghèo nhất. Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Các cụ ta chẳng bảo thế ư? Laughter is the best medicine. Người Tây phương cũng có một câu tục ngữ tương tự.

Trong kho tàng văn chương bình dân của ta có một số truyện cười, tuy không nhiều, như truyện Trạng Quỳnh, truyện Ba Giai Tú Xuất, với chủ đích trào lộng, châm biếm những thói hư tật xấu của vua quan hay các thành phần cường hào ác bá nhiễu lạm dân lành ở thôn quê. Có lẽ cũng có những chuyện tiếu lâm đem ra tiêu khiển những lúc thù tạc chén chú chén anh. Chính vì thế, sự hiện diện của hai nhà thơ kiệt xuất, Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương, trong văn chương Việt Nam đã đem lại cái tươi mai, hồn nhiên của bộ áo cánh nâu vải thô đơn sơ giữa rừng áo thụng lụa là nhiễu gấm trịnh trọng của dòng văn chương bác học suốt mấy thế kỷ từ Trung đại đến Cận đại.

Thế nhưng, vẫn theo lời ông Võ, thì nữ sĩ Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương khi viết những câu thơ như “Thân em vừa trắng lại vừa tròn,” hoặc “Hòn đá xanh rì lún phún rêu,” hoặc “Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không,” đâu có ý định chọc cười! Tự thân những câu thơ ấy không có giọng hài. Chúng ta cười chỉ vì đã “khám phá” ra cái hay ho, thú vị của sự liên tưởng, của ý nghĩa đằng sau ý nghĩa. Còn ông tú Vị Xuyên thì suốt đời làm thơ như uống rượu, chẳng màng để lại một thi tập nào cho hậu thế như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… và ông sinh sống ở buổi đất nước Việt Nam ít nhiều đã va chạm khá sâu sắc với văn hóa và chính trị phương Tây. Kỳ thực, thời đại của ông thường được mệnh danh là “giao thời,” một thời đại những giá trị mới cũ đan xen, pha trộn nhau đến chóng mặt, tuy những nhân tố cho một cuộc đổi thay khốc liệt vẫn còn đang lo le đâm chồi, chưa nảy nở toàn diện.

Nói chung đấy là một nền văn học thiếu vắng tiếng cười!

(Trong khi ở Tây phương cái hài ngay từ thời Cổ đại Hy Lạp đã được xem là một trong những phạm trù mỹ học cơ bản. Các triết gia từ Aristotle đến Hegel, Bergson… tuy mỗi người một ý, nhưng ai cũng xem cái hài là đặc tính vốn có của đời sống thực tại, mọi lúc mọi nơi đều đầy rẫy những cái có thể gây cười. Những nhà văn như Rabelais, Cervantes đều để lại cho nhân loại những tác phẩm văn học đầy chất hài. Ở đây cần nói thêm, cái hài trong mắt người Tây phương không phải sự pha trò mua vui, mà là tính mâu thuẫn nội tại giữa các hiện tượng tiêu cực không hoàn thiện và kinh nghiệm tích cực của nhân loại được ghi khắc ở các lý tưởng thẩm mỹ. Nói một cách nôm na, nó gay gắt phê phán cái lố bịch, giả trá của người đời, và là thứ vũ khí sắc bén dùng để công kích các thành phần thống trị trong xã hội.)

Nếu bảo chúng ta không được tiếp cận với văn hóa Tây phương sớm nên không biết cái hài nó như thế nào thì cũng không đúng nốt. Từ nhiều nghìn năm trước, ông thái sử công Tư Mã Thiên bên Trung quốc đã nói: “Đạo trời lồng lộng, to biết bao nhiêu! Lời nói bông đùa nếu hơi hợp chính đạo cũng đủ giải được những điều rắc rối.” (Sử Ký Tư Mã Thiên, Hoạt kê liệt truyện).

Vậy thì phải có lý do nào đó chúng ta né tránh cái cười trong văn chương. Nhà văn Võ Phiến nêu vấn đề và ông cho chúng ta luôn giải thích. Ông bảo: “Ta không pha trò là vì theo quan niệm văn hóa, trong bầu không khí sinh hoạt văn hóa của ta, nụ cười không tiện nở ra, không tự thấy thích hợp.”

Văn hóa ư? Một dân tộc có gần trăm kiểu cười khác nhau, liệu văn hóa ấy có thể cấm, tuyệt đối không cho cái cười chen vào được chăng? Hay văn hóa mà ông Võ nói đến là hệ quả của cái gì tàn bạo sâu kín hơn, như cái vòng kim cô bám chặt tâm thức người cầm bút Việt Nam khiến hắn không thể mở miệng buông tiếng cười sảng khoái bao giờ. Có lẽ chúng ta cứ việc đổ thừa lên ý thức hệ, từ ý thức hệ Khổng-Mạnh đến ý thức hệ Mác-Lênin. Vâng, với ý thức hệ “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình,” hoặc, ý thức hệ “văn học là hình thái phát ngôn ý thức của nhân dân, phải diễn đạt nhu cầu phát triển con người và xã hội cao nhất của thời đại và dân tộc,” thì thử hỏi ai là kẻ dám cả gan đem cái cười vào tác phẩm của mình? Xưa phong kiến, nhẹ: rơi đầu, nặng: tru di tam tộc; nay cộng sản, nhẹ: mất thẻ đảng, khốn đốn cả đời, nặng: tù cải tạo mút mùa.

2.

Sách vở y học đã nói nhiều về lợi ích sức khỏe của cái cười. Bước ra ngoài lĩnh vực y khoa, chúng ta cũng bắt gặp nhiều tư tưởng tích cực về cái cười. Bà nhà văn Annie Leclerc – một trong những nhà văn nữ thuộc phong trào Nữ quyền, người được xem là đã để lại dấu ấn khá rõ rệt lên khí hậu thời đại chúng ta đang sống – xem cười là một triết lý sống. Viết cuốn sách nhan đề Parole de femme (Thế giới đàn bà), xuất bản năm 1976, bà bảo: “… cười là một cảm giác vô cùng vui thích, một thú vị tột độ…” Cười là “hạnh phúc ngất ngây, là đỉnh cao chót vót của mọi hoan lạc. Cười vì hoan lạc, hoan lạc vì cười.” Triết lý này nhuốm màu sắc hiện sinh khi bà nói, “Kẻ đau đớn nối kết tiếng rên la của hắn với thời khắc hiện tại (hoàn toàn tách biệt với quá khứ hay vị lai), kẻ cười là kẻ không có ký ức hoặc ham muốn, bởi tiếng cười từ miệng hắn rơi vào khoảnh khắc hiện tại của thế gian và hắn chỉ cần biết có thế.”

Milan Kundera là một nhà văn khác bị cái cười ám ảnh. Nhưng cách hiểu cái cười của ông nhà văn Pháp gốc Tiệp này khác xa bà Annie Leclerc. Ông ghép “cái cười” và “sự lãng quên” thành một cặp phạm trù trái ngoe (incongruous juxtaposition, một biện pháp tu từ các nhà thơ hay sử dụng để làm bật tính hài), và ông khai triển nó đến tột điểm trong cuốn tiểu thuyết đã đưa ông lên địa vị một nhà văn quốc tế nửa sau thế kỷ XX, cuốn Tập sách của cái cười và sự lãng quên, xuất bản năm 1978. Nó là cái cười hàm súc một ý nghĩa chính trị, hiển lộ trong đoạn văn dưới đây mà tôi rất tâm đắc:

“Lần đầu tiên nghe quỷ sứ cười, thiên sứ kinh ngạc tột độ. Chuyện đó xảy ra ngay giữa bữa tiệc trong một gian phòng đông người, tiếng cười của quỷ sứ dễ lây một cách đáng sợ và nó lan từ người này sang người kia. Thiên sứ biết rất rõ cười như thế là xúc phạm đến Thượng đế và công tác thiêng liêng của hắn. Hắn biết rằng bằng cách này hay cách khác, hắn phải phản ứng nhanh chóng, kẻo không kịp, nhưng hắn cảm thấy yếu đuối và không tìm ra cách chống đỡ. Vô kế khả thi, hắn nhại theo đối phương. Hắn mở miệng phát ra tràng thanh âm đứt quãng nghe chói lói, the thé, nhưng với ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: ý nghĩa tiếng cười của quỷ sứ là chỉ vào tính phi lý của sự vật, ngược lại, thiên sứ thì muốn ngợi khen mọi thứ sao mà trật tự, khéo sắp đặt, tốt lành, và ý nghĩa thế.”

Đoạn văn này của Kundera có thể gây ngộ nhận tai hại nếu chúng ta không nắm rõ ý nghĩa của thuật ngữ và ẩn dụ. Trái với quan niệm thông thường vốn xem quỷ sứ là đại biểu cho cái Ác và thiên sứ là chiến sĩ của cái Thiện bên phía Thượng đế, chúng ta phải tạm thời xóa bỏ tư duy thông thường đó để hiểu theo cách ông nhà văn suy nghĩ, nghĩa là, “thiên sứ không đại biểu cho cái Thiện mà là một sáng tạo thánh hóa” và “quỷ sứ là kẻ chối từ, không chịu cấp bất cứ ý nghĩa hợp lý nào cho cái thế giới được thánh hóa tạo dựng đó.” Ở ngữ cảnh này, thế gian là một cảnh giới lưỡng cực, quyền thế được chia làm hai, một bên thiên sứ, bên kia quỷ sứ. Tuy nhiên, điều đó không ám chỉ thiên sứ ở vị thế cao hơn quỷ sứ, mà lực lượng đôi bên gần như cân bằng nhau. “Nếu thế gian có quá nhiều ý nghĩa không ai phản bác (sức mạnh của thiên sứ) thì con người sẽ bị đè bẹp dưới sức nặng của nó. Còn nếu thế gian mất đi tất cả mọi ý nghĩa (quỷ sứ lên ngôi) thì chúng ta cũng chẳng thể nào sống nổi.” Kundera nói thêm như vậy.

Nhưng lý do nào đã khiến quỷ sứ cười?

Quỷ sứ cười vì, vẫn theo Kundera, “ý nghĩa cố hữu của sự vật bỗng nhiên bị lấy đi, vị trí của nó trong một trật tự nào đó bị đảo lộn.”

Tôi nhớ năm học lớp 11 trung học tại quê nhà, cô giáo dạy Anh văn lớp chúng tôi hôm nào vào lớp cũng một cái áo dài trắng trên người. Cô đẹp nhưng dữ, và có tật hay đứng dựa bụng vào thành bàn trong khi giảng bài, đó là bàn đầu chỗ ngồi của thằng Thức, một học trò yêu của cô nhưng bị chúng tôi ghét thậm tệ vì cái tính kiêu mạn, phách tấu. Một hôm, cô vẫn đứng ở chỗ cô hay dựa thành bàn, và sau khi giảng hết một đoạn trong giáo trình, cô bước lên bục giảng, xoay người, hướng mặt về phía chúng tôi. Cô đứng trước lớp nói thêm điều gì đó và cả lớp đột nhiên im phăng phắc trong năm giây đồng hồ như thể đang quan sát một hiện tượng kỳ lạ, không thể tin được. Rồi, trong lúc cô đang nói, đột nhiên không ai bảo ai, tất cả gần bốn chục cái miệng cùng phá lên cười, cười ầm ĩ, cười sằng sặc, cười nghiêng ngửa, cười ra nước mắt, cười sặc sụa, cười khoái trá, cười rộ, cười ngặt nghẹo, cười ngất, cười vỡ bụng, cười như chưa bao giờ được cười. Tội nghiệp cô giáo, cô ngơ ngác không hiểu chuyện gì, nhưng như được trực giác sai khiến, cô cúi xuống nhìn tà áo dài của mình và cũng là chỗ gần bốn chục cặp mắt học trò quỷ sứ đang chằm chặp dán vào. Ngay hạ thể cô, hiện rõ trên màu áo trắng tinh một vết đỏ to bằng cái bánh dầy. Nhòe nhoẹt. Trơ trẽn. Nhơ nhuốc.

Cô rú lên một tiếng rồi ôm mặt chạy ra khỏi lớp học.

Thằng Thức bị gọi lên phòng tổng giám thị đầu tiên, những nó vô tội, thằng lấy mực đỏ bôi lên thành bàn – bàn học làm bằng gỗ tạp cũ xỉn đã ngả vàng đen, mực đỏ bôi lên không ai phát hiện được – trước giờ vào lớp là một trong nhóm những thằng phá phách nhất lớp, trong đó có tôi. Tôi nhớ hôm đó chúng tôi đã được một trận cười no say.

Vâng, chúng tôi cười vì, đúng như Kundera bảo, “ý nghĩa cố hữu của sự vật bỗng nhiên bị lấy đi, vị trí của nó trong một trật tự nào đó bị đảo lộn.”

Cùng một hiệu ứng nhân quả, chỉ khác tình huống, cái cười của lũ học trò chúng tôi thật ra vô hại (bất quá những thằng học trò quỷ sứ sau đó bị kỷ luật nhà trường trừng trị), trong khi cái cười của Kundera và những quỷ sứ đồng hành với ông đã khiến họ bị ném vào những số phận nghiệt ngã do bàn tay cai trị sắt thép của đảng cộng sản Tiệp. Cuộc “đấu cười” của trí thức văn nghệ sĩ Tiệp được Kundera miêu tả như sau:

“Thế là thiên sứ và quỷ sứ, hai bên giáp mặt nhau, hả họng thật lớn quang quác cùng một thanh âm, chỉ khác ở ý nghĩa tiếng cười mỗi bên tuyệt đối trái ngược nhau. Nhìn thiên sứ cười, quỷ sứ cười to hơn, nhiều hơn, sỗ sàng hơn, bởi thiên sứ mà cười thì hài hước không chịu nổi.”

Trong lúc dịch cuốn tiểu thuyết Đời nhẹ khôn kham của Milan Kundera, tôi tìm hiểu thêm về lịch sử nước Tiệp và thấy đó quả là một quốc gia đặc biệt. Dân Tiệp có một nền văn hóa rất cao. Trước khi tách ra thành hai quốc gia như hiện nay, dân số Tiệp có chừng 11 triệu nhưng kinh đô Praha từ thế kỷ XIX đã là một tụ điểm văn hóa châu Âu chẳng kém gì Paris, London hay Vienna. Bởi thế chẳng có gì ngạc nhiên cuộc cách mạng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Tiệp (thường được mệnh danh là cuộc Cách mạng Nhung vì hoàn toàn bất bạo động) là do giới trí thức văn nghệ sĩ chủ động lãnh đạo và đưa đến thành công. Cuộc Cách mạng Nhung tuy nằm trong chuỗi sụp đổ của đế quốc Xô Viết nhưng thực chất đã bắt rễ từ những hoạt động chống đối của trí thức văn nghệ sĩ từ thập kỷ 50 với lòng can trường hiếm thấy ở giới cầm bút như trường hợp thi sĩ siêu thực Zavis Kalandra bị nhà nước cộng sản tuyên án tử hình. Vụ này nổ lớn khi André Breton chính thức viết thư ngỏ can thiệp (nhưng không có kết quả và Kalandra sau đó bị treo cổ). Cao trào lên đỉnh điểm vào nửa sau thập kỷ 60 khi lãnh tụ Alexandre Dubček đưa ra những cải cách xã hội và kinh tế với khẩu hiệu “Xã hội chủ nghĩa với bộ mặt nhân bản” nhằm “dân chủ hóa” một số thiết chế nhà nước, cải cách chế độ bầu cử, xác nhận quyền tự do hội họp và phát biểu, nới lỏng tình trạng bóp nghẹt sinh hoạt sáng tác văn nghệ, v.v… Dubček chủ trương cải cách chứ không đặt quốc gia Tiệp ra ngoài ảnh hưởng của liên bang Xô Viết, cũng không từ bỏ theo đuổi mục tiêu cộng sản, và vẫn chấp nhận nằm trong liên minh quân sự Warszawa. Mặc dù vậy Moskva đã không thể chấp nhận thái độ thách thức đó của Praha, và một ngày mùa thu năm 1968 họ xua nửa triệu quân và hàng nghìn chiến xa sang chiếm đóng xứ Tiệp, áp đặt một thể chế công an trị tàn bạo hơn bao giờ.

Đó là thời điểm sau này được lịch sử mệnh danh là Mùa Xuân Praha. Nó cũng là lúc xảy ra những trận “đấu cười” giữa thiên sứ và quỷ sứ mà Kundera nói đến. Và dĩ nhiên, với họng súng đen ngòm của nửa triệu quân chiếm đóng, quỷ sứ phải câm họng để thiên sứ làm nốt nhiệm vụ thiêng liêng của họ.

Tiếng cười của quỷ sứ tắt ngúm.

3.

Trước đó hơn thập kỷ tại Việt Nam, đúng hơn tại miền bắc Việt Nam, cũng có một vụ “đấu cười” tương tự. Đó là vụ “Nhân Văn - Giai Phẩm” mà sách vở báo chí đã nói đến rất nhiều, thiết tưởng tôi không nên nói gì thêm ở đây. Lấy ra từ thơ văn vài số báo Nhân Văn - Giai Phẩm và dựa vào thuật ngữ Kundera, bài viết ngắn Ông bình vôi của Phan Khôi (hàm ẩn tính hài) và bài thơ dài Nhất định thắng của thi sĩ Trần Dần (không hàm ẩn tính hài) cả hai đều là tiếng cười của quỷ sứ. Đó là một cuộc “đấu cười” ngắn ngủi bởi thiên sứ chỉ cười gằn vài tiếng rồi đem súng đạn và nhà tù ra chặn họng, không cho quỷ sứ cười nữa. Bạn đừng bao giờ yêu cầu phải có fair-play ở đây. Cuộc “đấu cười” này, nhìn từ phía ngoài, chỉ củng cố thêm tinh thần chống cộng của cánh hữu, và tuy được thổi phồng, ảnh hưởng của nó không sâu, không xa. Lúc đó trí thức thiên tả phần nhiều tảng lờ, xem nó như sự bất mãn cục bộ, chẳng có gì đáng quan ngại, chính nghĩa chống ngoại xâm cứu nước vẫn sáng ngời, họ vẫn tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng cộng sản và hy sinh cho cuộc chiến, họ chỉ thật sự tỉnh ngộ sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền nam năm 1975 với tất cả những bề trái đen tối của chủ nghĩa cộng sản phơi bày ra trước mắt họ sau đó.

Cuộc “đấu cười” lần thứ hai xảy ra sau lần đầu gần ba thập kỷ. Đó là những năm đế quốc Xô Viết đang trên đà tan rã. Năm 1986, được thúc đẩy bởi chính sách “cởi trói văn nghệ” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và đảng lúc đó, một đội ngũ người viết mới xông xáo ra trận tiền với lòng phẫn nộ nung nấu bấy lâu và họ đã cống hiến nhiều tác phẩm xuất sắc bẻ ngược lại những gì Hiện thực Xã hội chủ nghĩa xưa nay “trói tay” họ. Dọn đường trước đó là những phản biện của vài trí thức già tuổi đảng như Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu… Nhưng phong trào chỉ thật sự bùng nổ với sự xuất hiện ồ ạt của những cây bút ở thế hệ ít tuổi đảng hơn hoặc không ở trong đảng như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp,  Phạm Thị Hoài, Trần Mạnh Hảo, Nhật Tuấn, Bảo Ninh, v.v…

Xuất sắc nhất có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp. Họ đã tạo được một khí thế hào hứng khá vững mạnh vì tiếng nói của họ mới mẻ, bạo dạn, họ dám nói lên sự thật. Dư luận cả trong lẫn ngoài nước đều tốt đẹp đứng về phía họ, và trận “đấu cười” giữa thiên sứ và quỷ sứ, lần đầu tiên trong lịch sử cộng sản Việt Nam phần thắng thế dường như nghiêng về phe quỷ sứ. (Một phần có lẽ vì các thiên sứ có chỉ thị tạm ngưng cười). Thế nhưng, chỉ ba năm sau, 1989, đế quốc Xô Viết sụp đổ tan tành, ông Nguyễn Văn Linh không muốn hoặc không đủ khả năng làm một Gorbachev Việt Nam và thế là văn nghệ lại bị “trói” như cũ, thậm chí chặt hơn cũ, để giúp đảng và chế độ tồn tại.

Một lần nữa cho thấy trước bạo quyền, ngòi bút thất thế. Văn nghệ sĩ “nhập cuộc” ai nấy hăm hở ở thuở ban đầu tưởng có thể đem tài năng mình ra làm đẹp xã hội, giúp ích nhân quần, nhưng họ thường mau chóng thất chí trước bạo lực chính trị cực quyền, trước quy luật kinh tế và thậm chí trước quán tính xã hội.

Từ đó đến nay, ba mươi năm trôi qua, không thấy một trận “đấu cười” ngoạn mục như lần năm 1986 diễn ra nữa. Thiên sứ đã trở nên khôn ngoan hơn, họ không mở đấu trường thì làm sao quỷ sứ thi thố cái cười của mình được. Họ ngồi trong bóng tối cười nhưng chỉ cười khảy, khinh thị, và tung ra những đòn âm binh, âm tướng. Quỷ sứ đôi khi cũng hả họng ra cười, nhưng chỉ cười khan, và tiếng cười khản đục của họ bị át bởi tiếng còi xe inh ỏi trên đường phố, tiếng nhạc dâm dật cuồng loạn trong các vũ trường ánh đèn màu, tiếng la ó huyên náo tại các trận bóng đá. Quỷ sứ buồn bã, lầm lũi bỏ ra về. Ngồi nhà, lâu lâu hắn đưa tay lên sờ râu cười gằn một tiếng, và mặc dù chỉ là cái cười không chút trọng lượng, nó cũng bị cái hố đen huyền tẫn hút mất tăm mất tích.

Chẳng gì bi thảm hơn cho quỷ sứ khi tiếng cười của hắn không ai nghe, không ai đấu lại.

4.

Cái cười quý lắm, trong một thế giới có 33 triệu chủng loại khác nhau, con người là sinh vật duy nhất biết cười.

7/2019

Chú thích:
Những trích đoạn trong bài viết lấy từ cuốn tiểu thuyết Le livre du rire et de l’oubli của Milan Kundera, xb 1978.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
Người tị nạn đã không còn được chào đón tại Hoa Kỳ kể từ ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. Ngay trong ngày nhậm chức 20 tháng 1 năm 2025, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp đình chỉ Chương trình Tiếp nhận Người tị nạn của Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program, USRAP) trong vòng 90 ngày. Dù vào tháng 2 năm 2025, tòa án liên bang đã ra phán quyết yêu cầu khôi phục chương trình tái định cư người tị nạn, chính quyền Trump vẫn khẳng định rằng không thể thực hiện điều đó ngay lập tức, do hệ thống tiếp nhận người tị nạn đã bị giải thể gần như toàn bộ.
Trong bài diễn văn dài 90 phút trước Quốc hội Hoa Kỳ, Donald Trump nhắc lại tham vọng “giành lấy” Greenland “bằng cách này hay cách khác.” Trump tuyên bố rằng Greenland có ý nghĩa “sống còn đối với an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ. Dù nhấn mạnh rằng chính phủ của mình “hoàn toàn ủng hộ quyền tự quyết của Greenland,” ông vẫn không quên mời gọi “nếu các bạn đổi ý, chúng tôi sẵn sàng chào đón các bạn gia nhập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp. Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng. Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.
Trong thế giới đấu tranh sinh tồn của loài vật, chuyện cá lớn nuốt cá bé là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong xã hội loài người ngày nay dù đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba hơn hai thập niên và được mệnh danh là thời đại văn minh tiến bộ vượt bực vẫn không thiếu chuyện kẻ mạnh ăn hiếp người yếu trong mối quan hệ giữa người với người. Tình trạng mạnh hiếp yếu còn diễn ra khốc liệt hơn trong mối quan hệ ở cấp quốc gia: nước lớn bắt nạt hay xâm lăng nước nhỏ. Ở đây cũng xin giải thích một chút về cách dùng chữ nhược tiểu trong tiêu đề của bài viết này. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này hoàn toàn không có ý nghĩa đánh giá tiêu cực về quốc gia được đề cập đến. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này là để chỉ cho sự yếu kém về quân sự và kinh tế so với những nước mạnh về quân sự và kinh tế đi xâm lược. Sự yếu kém về quân sự và kinh tế không đồng nghĩa với sự yếu kém về quyết tâm và đồng lòng bảo vệ đất nước của quốc gia bị xâm lược. Ngược lại, cuộc chiến tại Ukraine hiện nay và Việt Nam
Trong lịch sử thế giới, Việt Nam là dân tộc đã trải qua một cuộc nội chiến với kết quả là bản án tử kết thúc chế độ tự do dân chủ miền Nam ngày 30/4/1975. Hơn ai hết, những người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm xưa hiểu rõ cảm giác “bị lừa dối” hoặc “bị phản bội” từ bản Hiệp Định Paris do Henry Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa thuận sau lưng chính quyền VNCH, với sự ủng hộ của Tổng Thống Richard Nixon lúc đó. Vì thế mà kể từ khi Putin phát động cuộc tấn công xâm lược Ukraine ba năm trước, người dân Việt Nam luôn tỏ rõ lập trường cùng với các lãnh đạo Châu Âu đứng về phía dân tộc và đất nước Ukraine, trừ chính quyền CSVN đã hai lần bỏ phiếu trắng nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Điều gì thực sự xảy ra khi niềm tin nơi người đàn ông ở Tòa Bạch Ốc đang lung lay? Chúng ta sắp tìm ra câu trả lời rồi. “Ông ta không thể cho biết khi nào Canada sẽ tổ chức bầu cử. Chuyện gì thực sự đang diễn ra ở đó? Ông ta đang cố gắng duy trì quyền lực phải không?” Donald Trump đã viết trên mạng xã hội sau cuộc trò chuyện với Thủ tướng Justin Trudeau vào tuần trước.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.