Hôm nay,  

Văn Hóa Lon

13/07/201900:00:00(Xem: 5480)
Nói «Văn hóa lon» vì tiếng «LON» trong câu quảng cáo của Coca Cola «Mở lon Việt nam» bị bà Ninh thị Thu Hương, Cục Trưởng Cục Văn hóa Cơ sở, phê phán là «thiếu văn hóa. Vậy «Lon» vốn có sẵn tính văn hóa mà nay do dùng không đúng mà nó thiếu. Vì cách sử dụng làm thiếu văn hóa nên «Lon» bị Cục Trưởng Văn hóa lên án thêm là «phản cảm, trái thuần phong mỹ tục». Sẵn đà, bà Cục trưởng còn phán tiếp theo «trong tiếng Việt không có từ lon. Chưa kể bản thân chữ «lon» đặt cạnh cái khác…. Ví dụ như có thể thêm mũ thêm rất nhiều thứ. Nó mà ở các phương tiện quảng cáo ngoài trời, có nhiều tình huống có thể thêm mũ thêm dấu vào từ đó. Vì vậy nó rất là khủng khiếp nếu chữ đó nó chềnh ềnh ra trên biển quảng cáo ngoài trời» (Thanh Niên, 29/6/2019, Chu Mộng Long trích dẫn trong «Thân phận cái lon»).

Với vc văn hóa là vô cùng quan trọng bởi nó định hướng cho mọi sanh hoạt của chế độ và của nhơn dân. Không thấy sao ở Việt nam nhan nhản những tấm bảng lớn kẻ chữ đỏ lòm «Nếp sống văn hóa, Khu phố văn hóa, … ». Nghĩa là Việt nam dưới chế độ ta là nước đầy văn hóa. Không có ở đâu bằng!

Do tính siêu văn hóa đó nên tưởng nay có nói thêm đôi chút về câu chuyện «lon» của bà Cục Trưởng Thu Hương để hiểu quan niệm văn hóa của ta, chắc sẽ không đến nỗi bị bạn đọc quở. Vẫn biết không thiếu bạn đọc sẽ quát lên rằng «Thứ chuyện tào lao, hơi đâu làm mất thì giờ»!

Lon của Việt nam

Bà Thu Hương, Cục Trưởng Văn hóa Cơ sở, cho rằng từ «lon» không có trong tiếng Việt nam. Cục Trưởng Văn hóa nói, lời của bà phải có trọng lượng về văn hóa. Cỏ May tôi thiệt tình không dám nói «Trong tiếng Việt nam có từ «lon» và càng không dám nói từ «lon đúng là tiếng Việt nam». Mà chỉ dám nêu ra vài trường hợp từ «lon» được người Việt nam, không lai căng Tàu hay Cu-ba hay Vénézuela, dùng rất phổ thông, trên đất nước Việt nam không xhcn và từ khá lâu, phải từ trước khi bà Cục Trưởng Thu Hương sanh ra đời.

Trẻ con từ trước 1950, từ thành thị tới thôn quê, có trò chơi tập thể «tạc lon». Chắc quí vị bạn đọc có mặt ở thời điểm đó còn nhớ hoặc cũng có chơi. Vì lúc bấy giờ Việt nam đang chiến tranh, đồ chơi của trẻ con, như xe hơi, banh, búp bế,… chỉ dành riêng cho con em nhà giàu, tây tà, … Muốn đá cầu, lấy lông gà, kết với những khoanh giấy cạt-tông mỏng cắt tròn, giây thung cột lại. Đá banh, lấy trái bưởi rụng, quấn thêm giấy hoặc rơm làm banh, …

«Tạc lon» là trò chơi khá phổ biến trong giới trẻ xóm lao động của thành phố. Lấy cái lon sữa bò (lon bơ hiếm, lon coca cola hay bia, nước ngọt chưa có), dĩ nhiên hết sữa, đặt giữa một vòng tròn, khoanh lớn nhỏ tùy theo sự đồng ý chung, cách mức qui định cho chỗ đứng của người chơi, cũng tùy sự đồng ý chung (chừng 3,4m). Tham dự trò chơi «tạc lon» phải từ 2 người tới 4, 5 người mới hào hứng. Chơi lần lượt từng người một. Người chơi đứng vào mức qui định, tay cầm chiếc dép của mình hoặc mượn dép nếu đi chơn không, mắt nhắm cái lon là mục tiêu, tay ném chiếc dép thẳng vào cái lon. Cái lon văng ra khỏi cái vòng tròn là thắng. Trò chơi «tạc lon» mang tính thuần văn hóa vô sản, vì chơi vui, không ăn tiền vì trẻ con nhà nghèo cũng không có tiền để cờ bạc.

«Lon - Gáo gì cũng vậy» mà, con ơi! Một bà già trầu từ xẻo rô lặn lội, khăn gói lội lên Sài gòn tìm thăm con gái. Bà tới xóm lao động bên Xóm Chiếu, Quận IV (Thời Tây là Quận VI), tay cầm tờ giấy có ghi địa chỉ của con gái. Bà tới đúng nhà nơi con gái của bà ở. Không thấy con, bà hỏi người trong nhà lạ hoắc với bà. Một cô gái, trạc tuổi con gái của bà, bước ra tiếp chuyện với bà, trả lời:

Bác ơi, ở đây, không có ai tên Gáo hết. Ở đây có chị tên Thanh Loan, quê ở Rạch giá, ở đậu ở đây được mấy tháng rồi, để đi làm. Mà tối chị ấy mới đi làm. Chị vừa ngủ dậy, đi ra ngoài trước đường ăn sáng, chút xíu về. Bác bước vô, ngồi nghỉ tạm, đợi chị ấy về, bác coi có phải con gái của bác không?

Bà già thấy cô gái nói chuyện tử tế, không ngần ngại, vào nhà ngồi chờ. Bà vừa uống xong tách nước, cô Thanh Loan cũng về tới.

Thấy mẹ, cô gái kinh ngạc, lo sợ mà không kịp mừng rở:

Trời ơi ! Má đi đâu vậy? Con đã dặn, con gởi tiền về cho má. Lâu lâu, con về thăm má. Đi chi vậy. Cho khổ thân.

Nói xong, cô gái ôm chầm lấy mẹ.

Bà già cảm động, mừng gặp con, cũng xụt xùi nước mắt. Kéo cái khăn trên cổ, chậm nước mắt, vuốt tóc con gái, vừa nói:

Má hỏi, may có cô chủ nhà nói ở đây có cô L…on, quê ở Rạch giá ở đậu …Má nghi nghi nên ngồi chờ. May ra. Đi bộ lâu, cũng mỏi cẳng rồi.

Ai ngờ là con ở đây. Mà con ơi, con đổi tên của cha mẹ đặt chi vậy?

«L…on – Gáo» gì, cũng vậy, chớ có gì khác đâu. Con đổi tên làm chi vậy, cho má khó kiếm con nữa. May mà có cô ở đây …tử tế … (Loan, bà già không phát âm được nên với bà, đó là LON).

Gáo là dụng cụ múc nước rất thông dụng ở nhà quê miền nam, làm bằng cái vỏ cứng của trái dừa khô, sau khi đã lấy uuớc và cơm dừa rồi. Hai bên, người ta đục 2 cái lổ thẳng hàng, xỏ vào một thanh tre làm cáng cầm khi sử dụng. Múc nước xong, gáo được móc lên cây đinh đóng vào cây cột hoặc vách ván cạnh lu nước.

Cái Gáo bên cạnh lu nước là hình ảnh quên thuộc của xóm nhà là ở nhà quê miền nam.

Lon và tiếng Việt

Trong thực tế đời sống xã hội Việt nam từ xa xưa, ít lắm cũng cách nay hơn nửa thế kỷ, đã có từ LON và rất phổ thông.

Từ LON được đem vào Từ điển Việt nam, nghĩa là nó đã trở thành chánh thức cho  sử dụng. LON được Từ điển Việt nam (internet) định nghĩa rất chi tiết:

LON là danh từ có nghĩa như dưới đây:

-thú rừng cùng họ với cầy móc cua, nhưng nhỏ hơn.

-hộp đựng sữa hoặc nước giải khát, thường bằng kim loại

bia lon

lon nước ngọt

-bơ (phương ngữ)

đong mấy lon gạo nếp

nấu ba lon gạo

-vại nhỏ, chậu nhỏ bằng sành

lon nước gạo

nén một lon cà

-phù hiệu quân hàm (khẫu ngữ)

đeo lon đại uý. Xin nói thêm khi được lên Lon, được móc Lon, người này phải đãi bạn bè một chầu nhậu, gọi là «Rửa Lon».

Thông thường, khi một tiếng được đưa vào Từ điển, tiếng ấy đã trải qua một thời gian dài trong sử dụng. Tiếng LON được nhắc lại trong trò chơi của đám trẻ con nhà nghèo cách nay hơn nửa thế kỷ, như vậy tiếng LON phải xuất hiện trước đó khá lâu. Và chắc từ thời Tây ở Việt nam, dùng đồ hộp. Trước khi cái Bộ Văn hóa ra đời. Hay còn trước cả cái Việt nam Dân chủ Cộng hòa nữa kìa! Chắc chắn Lon là tiền bối của Cục Trưởng Cục Văn hóa Cơ sở!

Như người Bắc gọi cái cốc, dân Nam kỳ kêu cái ly. Cái «cốc» (cup - tasse) do người Hòa-lan đem tới Miền Bắc rất sớm, từ thế kỷ XVII.


Phản cảm, thiếu Văn hóa, trái Thuần phong mỹ tục

Đó là khẳng định của Cục Văn hóa cơ sở (Bộ VH-TT-DL) trong công văn gửi các Sở VH-TT-DL các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương về việc chấn chỉnh hoạt động quảng cáo sản phẩm Coca-Cola, được đăng trên Cổng thông tin Điện tử của Bộ VH-TT-DL vào chiều 28/6/2019. Ngay lập tức công văn này vấp phải ý kiến trái chiều của dư luận. Một số nhà nghiên cứu ở Việt nam có ý kiến: «Không phản cảm, không thiếu Văn hóa, không trái Thuần phong mỹ tục».

Nhà nghiên cứu ngôn ngữ Hoàng Tuấn Công, tác giả sách “Từ điển tiếng Việt của GS Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu” cho biết: Những cuốn từ điển trước năm 1930, ví dụ như cuốn “Việt Nam từ điển” của Hội Khai trí Tiến đức đã ghi nhận từ “lon”.

Giải nghĩa của chữ “lon” theo Từ điển này như sau: “Lon là một chậu lòng nông, thành cứng”. Ví dụ như “lon giã cua”, hay câu “Cái lon xách nước, cái lược chải đầu..”.

Trong các câu hát đồng giao thì từ lon cũng đã được sử dụng từ lâu trong dân gian và quá thông dụng.

Theo từ điển ghi nhận đến bây giờ từ “lon” cũng đã xuất hiện gần 100 năm. Và từ “lon” đã tồn tại từ trước đó rồi, không phải đến khi từ điển ghi nhận thì nó mới xuất hiện.

Trả lời câu hỏi của Phóng viên Báo NNVN về cụm từ “Mở lon Việt Nam” theo đánh giá của Cục Văn hóa cơ sở là “vi phạm thuần phong mỹ tục”, ông Hoàng Tuấn Công khẳng định: “Theo tôi, cụm từ “Mở lon Việt Nam” không có gì trái thuần phong mỹ tục cả, đấy đều là những từ thông dụng. Chẳng qua trong ngữ cảnh “lon Việt Nam” thì nghe nó lạ, đáng nhẽ nếu gọi là “lon Coca - Cola Việt Nam” thì sẽ không gây nên sự nghi ngại gì. Việc gọi tắt là “Mở lon Việt Nam” thì tự các nhà quản lý văn hóa nghĩ nó trái thuần phong mỹ tục thế thôi, còn về nguyên tắc cụm từ “Mở lon Việt Nam” không có gì là trái thuần phong mỹ tục cả”.

Còn PGS. TS Phạm Văn Tình, Tổng Thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt nam khẳng định: Tổ hợp “Mở lon Việt Nam” của Coca - Cola không có vấn đề gì. Luật Quảng cáo được áp dụng cho tất cả người Việt Nam và những đối tác kinh doanh với người Việt Nam ở trên đất nước Việt Nam, cho nên sử dụng từ Việt Nam chẳng có vấn đề gì là vi phạm.

Honda họ sử dụng slogan “Tôi yêu Việt Nam”, Bitis có slogan “Nâng niu bàn chân Việt”, hay những chương trình khác vẫn dùng 2 chữ Việt Nam đi cùng đấy chứ. Một trong những nguyên tắc người ta làm slogan hay làm quảng cáo, người ta có quyền rút gọn hoặc tạo ra các cấu trúc mới, lạ, gây ấn tượng, miễn là nó không đi quá xa. Cho nên cấm không cho sử dụng từ Việt Nam, từ Hà Nội hay bất kỳ từ nào đi kèm trong quảng cáo sản phẩm nghe nó không ổn. Ông Tình, Tổng Thư ký Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, quả quyết thêm: “Trong tất cả các từ “lon” tồn tại trong tiếng Việt thì không hề có nghĩa xấu” (Báo Nông Nghiệp, Khải Mông – Như Đông).

Thế mà khi thực hiện chỉ đạo của Cục Văn hóa cơ sở, Sở VH-TT-DL Hà Nội đã chỉ đạo tháo dở biển quảng cáo với slogan “Mở lon Việt Nam” ở khu vực Ô Chợ Dừa và phạt hành chính 25 triệu đồng với sự việc này (Báo Nông Nghiệp, Khải Mông – Như Đông).

Văn hóa LON

Bà Cục Trưởng Ninh thị Thu Hương cho rằng «mở lon là phản cảm, thiếu văn hóa, trái thuần phong mỹ tục» vì bà nghĩ khi nói LON là bà phải thêm dấu, đội nón cho nó. Làm Văn hóa tới Cục Trưởng Cục Văn hóa, bà không thể nghĩ gì khác hơn. Không nghĩ phải thêm dấu, đội nón chữ Lon là chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Là tha hóa, là mất lập trường giai cấp.

Nhơn cơ hội này, tưởng cũng nên nhắc lại Người với vài «thành tích Lon» theo nghĩa «lon» của bà Cục Trưởng Thu Hương, để nhờ đó làm toát lên thêm nghĩa của từ «Lon và văn hóa lon» của bà.

Bác Hồ của Cục Trưởng, năm 1924 ở Quảng châu, được gia đình bên vợ cửa Lâm Đức Thụ cho ăn ở và qua sự giới thiệu của Lâm Đức Thụ, bác lấy cô Lý Huệ Khanh là em của bà Lý Huệ Quần, vợ của Lâm Đức Thụ, tuy Hồ đã có Tăng Tuyết Minh rồi. Số Hồ hên về Lon, có 2 Lon «ma - zê in china» cùng lúc.

Sau khi vượt ngục Hồng kông được tổ chức an toàn năm 1932, Hồ Chí Minh qua Nga dưỡng bịnh. Ở đây, Hồ có cô bồ người Nga, Vera Vasilievna, người đã hết lòng bảo vệ Hồ  khi Hồ bị Ban Thẩm Tra ở Quốc Tế Cộng Sản điều tra, và bị bắt buộc học tập cải tạo tập trung, có thời gian khá dài, bị Staline cho đi lao động tại nông trường. Nơi đây, Hồ có bắt bồ với một nữ nông dân Nga, có với cô bồ này một người con trai. Khi Hồ làm Chủ tịch, người con trai này sống ở Nga và được Tòa Đại sứ Hà nội tại Moscou trợ cấp hàng tháng. Cứ mỗi đầu tháng, anh chàng tới Tòa Đại sứ lãnh tiền (Vũ Thư Hiên kể, do lúc Vũ Thư Hiên học ở Nga; nhờ bạn xắp xếp, được trông thấy 1 lần).

Theo địa chỉ tìm thấy trong cuốn sổ Voyageur Représentant Placier Cách mạng (VRP de la Révolution), cảnh sát Anh ở Hồng kông, vào 2 giờ sáng ngày 6/6/1931, đột nhập tầng lầu 2, nhà của T.V.Wong mướn tại số 168 đường Tam Công (Tam Kung), khu người Hoa ở Cửu Long. Nhà chức trách bắt được 2 người cùng nằm trên một giường, y phục thiếu, có lẽ vì Hồng kông oi bức do người đông đúc, nhà cửa chật hẹp. Người đàn ông khai tên là Sung Man Sho (Tống Văn Sơ). Người đàn bà trẻ tự khai là người Quảng Đông , tên Li Sam (Lý Tam). Cuộc thẩm vấn tại chỗ cho biết Wong, người thuê nhà, và Sung, người ngủ trên giường cùng người nữ, chỉ là một và đó là Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau này.

Về  Li Sam, tên thật là Ly Ung Thuan (Lý Phương Thuận hay Lý Huệ Phương). Theo Nguyệt Tú (Chị Minh Khai, NXB Phụ Nữ, Hà Nội 1980, trang 42): “Từ ngày đặt chân lên đất Trung Quốc, với bộ quần áo cải trang làm người con gái Trung Hoa, dưới cái tên Duy, rồi Trần Thái Lan, rồi Lý Huệ Phương khác nhau, Minh Khai nhiều lần vượt qua lưới mật thám Anh, Pháp ”.

Thế là bác của Cục Trưởng Thu Hương có thêm 1 cái Lon “ma-zê in liên-xô ” và 1 cái Lon “ma–zê in Việt nam”. Sau đó, bác đẩy qua cho đồng chí Lê Hồng Phong. Từ đó, bác còn thêm bao nhiêu cái Lon nữa? Phải Bộ Chánh trị ở Hà nội mới biết.

Như vậy phải nói bác Hồ đúng là người của văn hóa lon. Nhưng vốn con người cộng sản tinh ròng, bác chỉ sử dụng Lon, mà không bao giờ giữ Lon. Vì giữ riêng Lon cho mình là nặng tinh thần sở hữu, thứ văn hóa tư sản, mất quan điểm giai cấp. Với cộng sản, tất cả là của ta cả mà!

Năm 1990, rất tiếc Unesco đã không chọn Hồ Chí Minh là nhà văn hóa. Nay Cục Trưởng Cục Văn hóa Cơ sở còn đợi gì nữa mà không suy tôn bác là nhà văn hóa Lon trác tuyệt?

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu cuộc di cư tị nạn Việt Nam, tôi muốn chia sẻ một vài lời về sự kiên cường của chúng ta là người Mỹ gốc Việt, là người tị nạn và con cháu của người tị nạn. Cảm giác thế nào khi nền tảng của thế giới chúng ta đang sống bị rung chuyển đến mức chúng ta không còn biết mình đang đứng ở đâu hay làm thế nào để tiến về phía trước? Trước năm 2020, trước đại dịch COVID-19, chỉ những người đã chịu những bi kịch lớn mới có thể trả lời câu hỏi này. Bây giờ tất cả chúng ta đang sống với nó.
Nhưng vấn đề không đơn giản như họ nghĩ để buộc người miền Nam phải làm theo vì không còn lựa chọn nào khác. Trong 45 năm qua, ai cũng biết nhà nước CSVN đã đối xử kỳ thị và bất xứng với nhân dân miền Nam trên nhiều lĩnh vực. Từ công ăn việc làm đến bảo vệ sức khỏe, di trú và giáo dục, lý lịch cá nhân của người miền Nam đã bị “phanh thây xẻ thịt” đến 3 đời (Ông bà, cha mẹ, anh em) để moi xét, hạch hỏi và làm tiền.
Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway).
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.