Hôm nay,  

Hai thời gian

14/07/201903:45:00(Xem: 4533)

Hồ Thanh Nhã

 

       Hai thời gian

 

Anh ở Trung Đông về nghỉ phép

Nét vui rạng rỡ áo hoa rừng

Đẹp đôi cô bạn…dài đuôi tóc

Có nụ cười tươi mặt sáng trưng

 

Nầy anh lính chiến đồng hương trẻ!

Vào cash tiền xong nhớ lẹ ra

Kể chuyện hai năm …miền đất lạ

Buồn vui đời lính chiến trường xa

 

Ngân hàng không đổi tiền Iraq

Thì giữ dành cho…chuyến trở qua

Cũng đủ mua vui vài tiếng bạc

Giải khuây đời lính lúc xa nhà

 

Đoàn anh tham chiến vùng Tikrit

Sa mạc dài theo ống dẫn dầu

Đối mặt ruồi vàng bom tự sát

Nước khan mìn bẫy…nản lòng sao?

 

Bên trong pháo tháp tia hồng ngoại

Nhìn rõ xa xa dấu lạc đà

Chi đội kích đêm chờ bão cát

Buồn nghe muôn dăm bước quan hà

 

Nửa đêm thức giấc trong lều vải

Nhớ quá người yêu cách đại dương

Chiến cuộc dài thêm…dài nỗi nhớ

Viễn chinh đôi lứa rẽ đôi đường

 

Chuyện anh thế đấy…làm tôi nhớ

Cái nhớ miên man lặng cả người

Tôi thấy qua anh…là quá khứ

Một thời ừ nhỉ! Một thời thôi…

 

Ở anh tôi thấy ta là một

Cũng chiến trường xa cũng nhớ nhà

Mạng sống như treo đầu sợi tóc

Mà lòng vẫn nhớ…bóng người xa

 

                Hồ Thanh Nhã.

 

 

 

        Chiến dịch Bão táp sa mạc đánh Iraq năm 1,991 của Mỹ

 

Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư năm 1,991 ( cũng gọi là Chiến dịch Bảo táp sa mạc ) là cuộc xung đột giữa Iraq và liên quân 34 quốc gia do Hoa Kỳ lãnh đạo, được Liên Hiệp Quốc phê chuẩn để giãi phóng Kuwait khỏi sự chiếm đóng của Iraq.

Năm 1,990, Tổng thống Iraq lúc đó là Saddam Hussein tố cáo nước láng giềng là Kuwait bí mật hút dầu thô của nước ông từ mỏ dầu tranh chấp Rumaila.Ngày 1 tháng 8 năm 1,990, Iraq yêu cầu Kuwait xóa các khoản nợ chiến tranh và thanh toán 2,5 tỉ USD đền bù cho lượng dầu sản xuất ở mỏ Rumaila. Khi Kuwait từ chối yêu cầu đó, thì quân đội Iraq lập tức chiếm đóng nước nầy ngay ngày hôm sau.Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc ra nghị quyết yêu cầu Iraq rút quân ngay khỏi Kuwait trước ngày 15 tháng 1 năm 1,991. Đồng thời áp đặt đặt lịnh trừng phạt kinh tế đối với chánh quyền Baghdad.

Theo nghị quyết nầy của Liên Hiệp Quốc, một liên minh quân sự gồm 34 nước trừ Nga được thành lập do Mỹ lãnh đạo. Nhưng Iraq  ngoan cố không thi hành nghị quyết, vẫn đóng quân ở Kuwait.Quá thời hạn của Liên Hiệp Quốc đề ra, lúc 0 giờ ngày 17 tháng 1 năm 1,991, liên quân 34 nước mỡ màn Chiến dịch Bảo táp sa mạc, tấn công lực lượng Vệ binh cộng hòa của Iraq đang trú đóng trên lãnh thổ Kuwait. Chiến dịch nầy kéo dài 41 ngày, bao gồm cuộc tấn công bằng không lực và hải pháo từ ngày 17 tháng 1 đến 23 tháng 2 năm 1,991 với lực lượng 2 ngàn máy bay và hàng trăm chiến hạm tham chiến. Sau đó là cuộc tấn công trên bộ với sự tham chiến của 600 ngàn quân đồng minh với 4 ngàn xe tăng, 3,700 đại pháo trên mặt đất và 100 chiến hạm của Mỹ yểm trợ và phong tỏa vùng Vịnh Ba Tư. Cuộc giao tranh trên bộ bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 năm 1,991 với lực lượng đầu tiên là 2 tiểu đoàn của Sư Đoàn 82 Dù của Mỹ  trực thăng vận đổ bộ vào phía Nam của thủ đô Kuwait, sau lưng lực lượng Vệ binh cộng hòa Iraq, mỡ màn cuộc tấn công trên bộ. Cùng lúc đó, các cuộc đổ bộ khác trong vùng biển chiến thuật đồng được tiến hành trên các đảo duyên hải và nhiều khu vực ở bờ biển phía Đông Kuwait. Vào cuối ngày 24 tháng 2 năm 1,991 liên quân đã tiến sâu vào nước Kuwait được 48 km. Ngày 25 tháng 2 năm 1,991, lên quân đã chọc thủng được các vị trí phòng thủ của các quân đoàn 3 và 4 của Iraq trên lãnh thổ Kuwait. Một cầu không vận bằng trực thăng đã được thiết lập để tiếp vận cho cuộc tấn công vào khu vực Basra. Ngày hôm sau liên quân  chiếm được thành phố Kuwait.Trực thăng đổ 2 tiểu đoàn án ngử xa lộ Basra và Iraq, chận đường về của đoàn quân xâm lăng Iraq. Kuwait hoàn toàn được giải phóng vào ngày 27 tháng 2 nắm 1,991. Liên quân giao chiến dử dội với lực lượng Vệ binh Cộng hòa Iraq trong nhiều khu vực ở Basra. Quân đội Iraq bắt đầu nhanh chóng rút lui trong hổn loạn. Thiệt hại về phía Iraq là hàng chục ngàn người chết trong 41 ngày giao chiến. Trong khi đó lực lượng liên quân có 300 người chết và khoảng 600 người bị thương. Giao tranh tạm ngừng vào ngày 28 tháng 2 nắm,1,991. Một thỏa thuận ngưng bắn được ký kết ngày 6 tháng 3 năm 1,991, chấm dứt chiến dịch Bảo táp sa mạc ở Vịnh Ba Tư. Sau đây xin mời quí độc giả thưởng thức một bài thơ khác của tác giả :

 

 

           CHUNG và RIÊNG.

 

Nắm tiền lẻ gầm bàn

Cho hai cà phê đá

Sợ anh không tiền trả

Nhín gói quà điểm tâm

 

Mấy ngón tay chạm tay

Dưới gầm bàn thân ái

Mai sau còn nhớ mãi

Thứ bảy nào mưa bay?

 

Hai xe đạp nhanh nhanh

Chiều tan trường nhẹ gió

Lá me bay vàng đỏ

Rụng đôi bờ tóc xanh

 

Chung một xóm ngoại ô

Đi về con hẻm nhỏ

Tiếng chim quyên đầu gió

Man mác tình ấu thơ

 

Cùng tốt nghiệp ra trường

Chung một niềm mơ ước

Làm sao mà biết được

Tuổi đá vàng khói sương?

 

Mừng nhau ly rượu đầy

Ảnh chụp chung bàn cưới

Một lần chung…lần cuối

Em bây giờ của ai?

 

Mười lăm năm không gặp

Còn gì chung nhau đây 

Đường em sao thẳng tắp

Đường anh mưa gió bay?

 

Góc trời riêng cách biệt

Đường đời không có nhau

Mùa phong vàng lá chết

Nhớ gì cơn mưa Ngâu?

 

Một lần mong ước nhỏ

Khung trời chung có nhau

Tiếng chim quyên đầu gió

Còn nghe chung năm nào …

 

        Hồ Thanh Nhã.

 

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.