Hôm nay,  

Tổ Nghiệp

18/07/201900:24:00(Xem: 4639)
Tổ Nghiệp
             blank       

Truyện Ngắn của Nguyễn Văn Sâm

 

Ông già chừng đã bước qua tuổi tám mươi nhưng dáng dấp còn sõi sàng, ngồi nhâm nhi tách nước trà như muốn thưởng thức từng ngụm nước nhỏ trong buổi sáng nhà hàng thưa thớt khách. Mắt ông xa vắng đưa hồn về chỗ dĩ vãng xa xăm nào đó đương chập chờn ẩn hiện trong ký ức. Tôi liếc trộm ông thiệt lâu, ông già nầy lạ, ngồi yên lặng, chưa nói chuyện với mình, nhưng cử chỉ của ông đã toát ra vẻ gì đó thiệt là thoải mái thân thiện khiến mình nao nức muốn làm quen liền.

Người bạn tôi nói nhỏ:

“Đó là nghệ sĩ lừng danh Tuấn Đạt, người từng làm mưa làm gió trên các sân khấu cải lương ở Miền Nam hơn nửa thế kỷ trước. Bây giờ thời thế bắt ông xa nghề bỏ nghiệp, nói chuyện với ông ta mình biết được nhiều điều hay ho về sinh hoạt cải lương, về tình đời, về những điều cười ra nước mắt trong nội tình các gánh hát sau cuộc đổi đời.”

Bốn người chúng tôi đồng ý cử anh bạn thổ công nầy mời người nghệ sĩ già sang bàn mình. Được mời, ông đứng dậy liền, không khách sáo, tay nầy xách bình trà, tay kia nưng tách nước. Tôi có cảm tình với ông khi nhìn cử chỉ xăng xái nầy vì tôi biết ông là chủ nhân của quán – do quán mang tên nghệ sĩ của ông- chỉ cần đứng dậy thì nhân viên phục vụ đã biết ý mà bưng bình trà qua rồi.

Không cần giới thiệu hai bên, cũng không có những cái bắt tay khách sáo vồn vã chẳng cần thiết, ông nói liền:

“Anh em có biết không, tôi biết viết chữ Tàu đó.”

Cả bọn đưa mắt ngó nhau. Nhập đề hơi lạ à nhe! Quá ấn tượng! Ai khảo đâu mà xưng?

Ông móc ra tờ giấy trắng tuy nhàu nát nhưng được xếp để sẵn trong túi áo sơ-mi, nghiêng mình rút cây viết được mắc trong túi quần, hí hoáy viết hai chữ Hán, đẩy ra giữa bàn. Mắt các bạn chiếu tướng tôi. Tôi nói:

“Tổ Nghiệp” Anh Đạt có ý gì khi viết hai chữ nầy?”

Nghệ sĩ già cười hiền:

“Ý mẹ ý con gì đâu? Quọt quẹt có trần xì hai chữ nầy thôi. Còn ngoài ra trớt quớt hết. Chú tôi dạy khi tôi mới vô nghề, mới bắt đầu học tuồng, đóng vai Quách Hải Thọ. Học để kính trọng tổ đó mà, để khỏi làm bậy mang tiếng tổ nghiệp! Cái lạ của ổng là không dạy mình ca hát, chẳng nói gì tới chuyện diễn xuất mà dạy mình phải trọng tổ và không được làm chuyện gì nhục tổ, ô danh. Tổ không cần phải là khúc cây đẽo hình đứa nhỏ như trong gánh hát bội. Tổ của chú tôi truyền lại cho tôi là hai chữ huyền diệu nầy. Ông bắt viết đi viết lại như là tôi phải học chữ Nho để đi thi Cử Nhơn, Tiến Sĩ Hán Học không bằng. Chán chết được. Trời đất ông địa ơi, con trai mới 12, 13 tuổi còn ham trửng giỡn, còn ham leo trèo nhảy nhót mà ổng bắt viết hai chữ rồng rắn nầy mỗi ngày gần hết cuốn tập 100 trương xích lô máy. Như là cực hình! Mấy anh biết không, mình không dám chống lại ổng, cũng không có ý nghĩ chống lại nên ổng biểu tập là tập thôi. Ngày đêm, lúc nào rảnh rỗi, lúc nào cái lưng nó muốn cúp xuống, đứng lên quay mạnh nó kêu răn rắc mới thôi. Hơn sáu chục năm rồi mà tôi còn nhớ được là nhờ thỉnh thoảng cũng có dịp viết hai chữ nầy để treo lên khi cúng kiếng cho đoàn.”

Tôi dòm sơ qua tờ giấy lần nữa. Nét chữ chân phương tầm thường, có thể nói là còn non nớt nhưng nhằm nhò gì, thầy dạy chắc có ý gì đó khi cố gắng đưa hai chữ nầy vô trí học trò.

“Mấy anh biết đó mà, gánh hát lưu động hoài, ở chỗ thị tứ thì ít mà chỗ xa xôi hẻo lánh chó ăn đá gà ăn muối thì thường. Mang khuôn kiếng đi sợ nó bể, mất công quá, tôi sáng trí bày ra chuyện viết trên giấy cạt-tông thùng sữa con chim. Tức cười là có nhiều chỗ mấy ông già bà lão tưởng tôi biết chữ Nho năn nỉ viết nầy kia để thờ. Phải từ chối trối chết. Cha mẹ ơi, họ lại tưởng tôi làm cao, nằn nì mời về nhà, đãi đằng gà vịt ăn tràn họng, lại còn được con gái, cháu gái họ mắt liếc đưa tình với mình nữa.”

Người nghệ sĩ rót cho mình tách nước đầy, sóng sánh bọt, đưa lên môi thổi nhè nhẹ. Mắt mơ màng.

“Từ lúc thằng nhỏ chưa biết mùi đời chú nó đã răn đe là nên trọng tổ nghiệp. Không phải là cúng vái tổ để được giọng mùi, tiếng thanh, hát hay, hơi dài, diễn xuất ăn khách, cũng không phải biết cách luyến láy, chẻ chữ, bẻ câu cho mê mẩn người nghe, mà trọng tổ nghiệp là không lợi dụng tiếng tăm của mình xí gạt người nầy người nọ để lấy tiền lập gánh hay cất vô túi để xài bậy bạ như là bao gái, đốt khói phù dung hay canh bài lá bạc. Chú tôi oai hùng lắm, ngày trước là bạn cùng đóng tuồng với kép đẹp Từ Anh, cùng ca chung với Cô Tư Sạn. Chú nói đời chú trong ba mươi năm theo hát thì nắm vững cái khí tiết của kẻ cương trực khi chưa nổi tiếng, chưa lập được gánh. Khi có chút tiếng tăm, làm được bầu gánh rồi thì tập lòng trống trải, không ganh ghét ai cũng chẳng mưu cầu lợi dụng ai. Chú tôi là nhà Nho lỡ thời, học trò của ông Đặng Thúc Liêng, ông Lương Khắc Ninh, ông Nguyễn Chánh Sắt nên Nho ổng xổ ngon ơ.”

Tuấn Đạt ngồi thẳng lưng, dựa vô ghế lim dim ngâm nho nhỏ, hơi thiệt là ấm, giọng ngang tàng như một kiếm khách lẫn chút bất cần cuộc đời huyễn ảo của một nhà sư:

Vị xuất thổ thời tiên hữu… tiết…

Đáo lăng vân xứ dã hư… tâm…[1]

Ngâm sĩ chồm tới sát bàn ăn hơn, nói tiếp:

“Dạy cách ở đời thì vậy, còn dạy về phụ nữ thì răn cấm đem giọng kèn tiếng quyển lợi dụng đàn bà, con gái người ta. Mỗi lần ổng nói tới chuyện gái trai thì tôi mắc cở muốn chết luôn, ước sức độn thổ được tôi cũng độn. Mới nứt mắt, biết đách khô gì. Con gái trổ mã, dậy vú đứng gần hay nắm tay nắm chưn tôi cũng tỉnh queo, nhiều khi còn cự nự nữa là đằng khác. Vậy đó mà ông cứ chận đầu trước hoài khiến mình đỏ mặt bừng tai. Ổng thí dụ về một hai nghệ nhân trong đoàn, anh thì mèo đàng chó điếm, anh thì hoa thơm nhổ cả cụm, bẻ một lượt hai cành hoa chị em của một nhà nọ, ông già mấy cổ hay được xách rựa rượt thanh niên cả đoàn chạy trối chết khiến chú phải đứng ra dàn xếp trần ai khoai củ, tốn cả bình nước miếng và nước mấy sông để rửa nhục.”

Tôi thay đổi đề tài để khỏi nghe thêm những chi tiết xấu xa xưa cũ vốn không ích lợi gì cho ai, yêu cầu:

“Anh Đạt! Tiếc là nơi đây không có Tam hùng để làm bộ ba Năm Cơ đàn sến, Văn Vĩ đàn guitar, Bảy Bá đờn tranh như ngày xưa, nhưng thôi, mình giả sử như vậy đi, anh làm ơn ca chừng hai câu bài vọng cổ tuyệt chiêu của anh để bốn anh em chúng tôi bay ngược thời gian trở về hơn bốn mươi năm trước. Cũng là món quà quí giá anh tặng cho người tới từ xa vì cái thanh danh lẫy lừng của anh….”

Người nghệ sĩ trầm ngâm, nuốt nước miếng, chậm rãi. Tôi tưởng ông sẽ cất tiếng ca, nhưng không, ông triết lý:

“Bài tuyệt chiêu đó nghe! Nhiều người có: Út Trà Ôn trước khi đất nước chia hai có Tôn Tẩn Giả Điên, Út Bạch Lan có Hoa Lan Trắng, Ngọc Giàu có Áo Tình Đắp Mộ Người Yêu, Út Trà Ôn sau nầy có Tình Anh Bán Chiếu, Lệ Thủy có Bạch Thu Hà, Thanh Nga có Lắng Tiếng Chuông Chùa… Đó là chưa kể trước nữa, các đàn anh như Thanh Tao, Năm Phồi, Năm Nghĩa, Bảy Cao, Bửu Tài… mỗi người đều chuyên trị một vài bài ruột, nhứt là Năm Nghĩa với bài Văng Vẳng Tiếng Chuông Chùa nghe mà muốn đứt ruột đứt gan.

Ngừng một lúc ông khiêm nhường:

“Nói nầy nghe nhe! Tôi không dám nói mình có bài nào tuyệt chiêu hay ruột hoặc là vua của bài nào cho nên xin được cáo lỗi mấy anh. Với lại ở chỗ nhà hàng ăn uống tạp nhạp xin phép không ca, hôm nào anh em mình huỡn huỡn tổ chức một buổi hội ngộ ở nhà tôi, tôi sẽ đem hết tâm trí ca mấy bài vọng cổ cho anh em thưởng thức…”

Biết nghệ nhơn từ chối khéo, chúng tôi đành thúc thủ ngồi im, quan sát nhà hàng. Cũng đông bộn, cũng có người ngoại quốc ra vô. Chắc chắn là do tài của nhà bếp chớ không phải vì tò mò do cái tên của nhà hàng như bọn chúng tôi…

Một thiếu phụ xuýt xoát sáu mươi nhưng còn mướt lắm, đi vòng quanh bàn chúng tôi một vòng rồi ngừng ngay chỗ Tuấn Đạt, tự tin để tay mình lên vai ông, giọng thân thiết:

“Anh còn nhớ em không?”

Tuấn Đạt nheo mắt, nhìn tới nhìn lui thiếu phụ một hồi lâu ớn mới chậm rãi:

“Sao không kêu bằng chú nữa mà kêu bằng anh. Bỏ hát rồi làm gì?”

Thiếu phụ cười xẻn lẻn:

“Lấy chồng! Ngừng một lúc chị nói thân mật hơn. “Già rồi anh ơi, đâu còn nhóc như hồi đó mà chú chú cháu cháu nữa.” Day qua chúng tôi, chị phân bua: “Hồi đó tôi yêu ảnh quá trời quá đất. Yêu chết được vì giọng ca ảnh hớp hồn tôi, vai của ảnh vừa anh hùng vừa lãng mạn khiến cho mình chỉ muốn được làm người yêu thiệt của ảnh ngoài đời.” Rồi chợt nhớ ra mình đã nói hơi nhiều, chị thắng liền: “Cũng cám ơn ảnh tỉnh táo từ chối sự bồng bột tuổi trẻ của tôi cho nên bây giờ gia đình tôi mới hạnh phúc. Thôi cho xin kiếu mấy anh. Ông xã tôi chắc đương chờ ở tiệm băng nhạc đằng kia, ảnh mở phòng mạch cách đây chừng 5 giờ lái xe, thỉnh thoảng chúng tôi về vùng nầy vì nhớ không khí quán hàng Việt Nam. Tôi sẽ ghé thăm anh Tuấn Đạt thiệt lâu khi có dịp về lại trong vài tháng tới. Gặp nhau ở quê người là hạnh ngộ rồi, đâu để mất liên lạc cho đành. Hồi nãy tôi chỉ vô đây cầu âu khi đọc cái tên nhà hàng...”

Người nghệ sĩ già đứng dậy, bối rối. Một cái hôn được đặt lên má ông, một cái ôm thắm thiết quá hơn tình quen biết cũ tiếp theo đó.

Người đàn bà bước đi coi bộ không vững, chậm chạp. Tuấn Đạt ngồi xuống lại, không đợi người đẹp khuất bóng ở cánh cửa ngoài.

Không khí bàn chúng tôi yên lặng, ai cũng đưa trí mình vào những suy đoán nầy nọ. Tách nước trước mặt người nghệ sĩ già lại được châm đầy, nước tràn qua dĩa loang trên khăn bàn, tay người rót run run…

“Chuyện gặp lại nầy tôi không ngờ nhe! Cũng chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ kể về chuyện cô ấy với ai hết, để bụng cho riêng mình, đó là hành trang đặc biệt của tuổi trung niên. Nhưng mấy anh đã thấy, đã hiểu phần nào nên xin nói lại cho rõ….  

Năm đó tôi đã ly dị cô vợ thứ nhứt được đâu hơn một năm rồi. Đời độc thân có phần bê bối về quần áo, cơm nước và đặc biệt là giờ giấc mấy anh biết đó. Tôi hơi xuống trong nghề, nhưng cũng chưa đến nỗi nào. Đoàn hát đương ở quận Ô Môn của tỉnh Cần Thơ. Hát một tuồng của chú Bảy Bá mà vai cô ta yêu thầm vai của tôi, và tôi không chịu, có cảnh cô ta té xỉu, tôi phải đở dậy. Tôi xuống câu vọng cổ, đèn màu bựt lên, trong khi khán giả vỗ tay muốn bể rạp thì cổ nói nhỏ:

“Chú ôm cháu mạnh hơn đi, ôm sát nó, cháu thích như vậy. Hun cũng được. Vừa nói cô ta vừa choàng tay qua cổ tôi, kéo đầu tôi sát vô ngực mình, tôi lật đật gỡ ra và nói, đừng làm vậy…. Cô ta mới 17, nhỏ hơn tôi cả hai chục tuổi, tôi không ngờ lại bạo gan quá chừng, phải nói là gan cùng mình, chỗ nào cũng có. Ôm cứng ngắc. Cực khổ trần ai khoai củ mới gỡ được tay ra, sau khi ôm thiệt mùi theo ý của cô ta. Khán giả lại vỗ tay thiếu điều bung cửa, tiếng huýt sáo, tiếng đập ghế điếc lỗ tai mọi người.

Vãn hát cô ta tươi tỉnh, nhỏng nhảnh rủ chú Tuấn Đạt chở xe lên Quận ăn cháo khuya thưởng cho hồi nãy đóng mùi quá, không sượng. Đào kép có mặt ai cũng ngó tôi hoặc là ganh ghét, hoặc là xầm xì. Tôi hẹn rồi lầm lì xuống gầm sân khấu giăng mùng, nằm xảy tay chưn trên ghế bố không chịu ra. Cái tội lỗi ngọt ngào lảng vảng mời gọi làm tôi cả đêm không ngủ được. Tức cho mình đã vô lý, lo sợ viễn vông, trốn tránh cái gọi là sự thử thách của tổ nghiệp, một thứ gì đó mơ hồ, trong khi món quà của trần gian thơm tho hết biết. Rồi tôi lại khen mình đã biết nói không, can đảm lắc đầu trước cám dỗ. Muốn lắm mà từ chối, nó làm mình cao hơn, có giá trị hơn. Thấy mình sắp sai trái để mà đứng lại kịp lúc.”

Người quản lý tiệm bất ngờ xăm xăm tới bàn nói nhỏ với Tuấn Đạt gì đó, ông bình thản nói lớn như ra lịnh:

“Kệ cha nó, tụi nầy không cung cấp thì kiếm tụi khác. Đừng lo. Để đó tao.”

Quản lý bước đi. Nghệ sĩ tươi cười hơn:

“Một chút xíu đó mà sợ cho tụi nó lờn mặt.”

Chúng tôi chẳng hiểu gì, lại ngó nhau. Ông tiếp:

“Có gì đâu, hôm qua tôi làm giặc với tụi whole sale cung cấp cá thịt khi thấy có trứng sên trong một hai vỉ cá. Tụi nó nói là chỉ có một hay hai vỉ là cùng, sẽ đền bù ¼ số lượng cá order lần nầy. Tôi nói tao không cần đền bù, tao cần trả lại hết lô cá không đúng chuẩn lần nầy. Bây giờ tụi nó nói là khó quá thì kiếm nhà whole sale khác cung cấp, trước hết phải thanh toán tiền còn thiếu trước đây. Tụi nầy quen thói làm ăn trời ơi đất hỡi ở ChợLớn, HongKong, không phải đàng hoàng như bọn Mỹ. Coi thấy tức cười không? Tụi nó đâu biết là tôi đã từng tập phải suy nghĩ tới cái không làm hại cho người khác trước khi nghĩ tới cái lợi cho riêng mình. Mình trách thầm người Việt Nam nghèo ở gần biên giới phía Bắc rủ nhau đi mua thịt heo, thịt bò, thịt gà vịt thúi ướp lại bằng hóa chất đem về miền xuôi bán kiếm lời. Tụi chủ nhà hàng thích loại thịt nầy vì vốn một lời 5, 7 thì tại sao mình hám lợi xài thứ cá có thể có sên bán cho khách của mình? Họ đâu có tội tình gì mà mình hại họ bằng cách cấy sinh tử phù vô óc, vô gan họ. Hai hành động ở hai nơi tuy nhỏ lớn khác nhau nhưng có khác gì nhau đâu nè?”

Tôi  chồm tới bắt tay ông để tỏ cử chỉ khâm phục:

“Từ chối dầu lòng rất muốn là làm cho con người mình lớn lên, là làm cho đất nước cùng dân tộc mình hưng thạnh lên. Xin được hổn hào để khen ngợi anh điều đó.”

Người nghệ sĩ già gục gặt đầu:

“Cũng là tổ nghiệp thôi. Trọng nghiệp tổ thì không làm bậy. Tổ nghề ca hát, tổ nghề buôn bán hay tổ của cả nước, tức là tổ quốc có khác gì nhau đâu?”

Tôi nghe mình mát ruột. Cái câu xướng ca vô loại người xưa nói đáng xổ toẹt ở trường hợp người nghệ sĩ nầy, ông ta ngày xưa đã ru hồn tôi bằng bài vọng cổ Tiếng Trống Tàn Canh và ngày nay qua những tâm tình móc ruột phơi gan cũng có giá trị luân lý không kém những bài tập đọc trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư là mấy. Điều đáng tiếc là người được nghe chẳng có bao nhiêu và người thực hành theo tôn chỉ tổ nghiệp, hữu tiết, hư tâm mà ông truyền thừa chắc cũng chỉ chép đầy lá mít là cùng. Tôi cảm thấy lòng mình nao nao buồn và hình như quanh tôi, bốn người cùng bàn đều lần lượt buông tiếng thở dài dầu mới nghe được một câu nói rất đáng đồng tiền bát gạo.

   

San Jose, CA, cuối Aug. 2012

(Khởi thảo tại nhà N.T. Khanh)

Nguyễn Văn Sâm

 


[1] Vịnh cây tre cây trúc, tức vịnh người quân tử. Có khí tiết khi chưa ra khỏi đất (vị ngộ), khi vương lên cao rồi (thành đạt) thì lòng thiệt hư tâm, chẳng gút mắc, để bụng, chấp nhứt, tỵ hiềm.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.