Hôm nay,  

Ross Perot 1930 – 2019

23/07/201900:00:00(Xem: 4180)
Ông Ross Perot  là doanh nhân Mỹ ra tranh cử TT Mỹ như một ứng viên độc lập năm 1992  và năm  1996.  Ông là một trong ứng viên độc lập thành công nhất trong lịch sử Hoa kỳ.

Ông được biết tiếng như là một ứng viên TT thuộc thành phần thứ ba thành công nhất trong lịch sử Hoa kỳ.  Từ năm  1957 đến năm 1962, ông làm việc cho hãng IBM.  Sau đó ông lập ra công ty riêng cho mình tên Electronic Data Systems, và bán cho hãng General Motors năm  1984  với gía 2.5 tỷ 500 ngàn đô-la.  Năm 1992, ông ra ứng cử TT với tư cách một ứng viên độc lập, và đã thắng được gần 19% số phiếu phổ thông.  Ông thành lập Đảng Cải Cách năm 1995 và ra ứng cử TT một lần nữa vào 1996, tuy nhiên không được sự ủng hộ như lần trước.  

Ông là tác giả của nhiều sách trong đó có cuốn Ross Perot: My Life and the Principles (Ross Perot: Đời tôi và các Nguyên tắc), và quyển United We Stand  (Đoàn kết ta sẽ đứng vững).  Ông chết vì bị ung thư máu ngày 9, tháng Bảy, năm 2019.  

Sanh năm 1930, tại Texarkana, Texas, ông trở thành một doanh nhân hàng đầu và sau đó là một lực lượng chính trị đáng kể.  Ông thừa hưởng được cái duyên dáng và óc thương mai nhạy bén  từ cha mình là ông Gabriel Ross Perot.  Ông cụ Gabriel điều hành một công ty bán sĩ bông vải và các ngành kinh doanh khác. Perot là người con thứ ba, có người anh bị chết khi còn bé, ông còn có một người chị tên Bette.

Tên thật của ông là Henry Ray Perot, sau này ông đổi thành Henry Ross Perot.  Perot thân cận với cha mình trong những chuyến họ đi đấu giá gia súc để học nghề mại bản.  Trong sách của mình, ông kể là mình khởi nghiệp với nghề mua bán yên ngựa và các dụng cụ khác, và sau đó là tới gia súc.  Perot nói : “ Tôi làm nghề mà thiên hạ gọi là mua-bán-trong ngày.  Mua buổi sáng, bán buổi chiều, và nếu hên thì kiếm được vài đồng.”  Ông cũng là một anh chàng đi giao báo.

Năm 1949, ông ghi danh vào Học viện Hải quân Hoa kỳ ở Annapolis, Maryland.  Ở đây, tài năng của ông nở rộ và là trưởng lớp cho năm đầu và năm cuối.  Trong thời gian này, ông gặp vợ mình sau này là Margot.  Họ cưới nhau năm 1996 và có năm con.

Sau khi rời Hải quân năm 1957,ông trở về Texas với vợ  và phục vụ cho công ty IBM.  Sau đó ông quyết định tách ra lập công ty Electronic Data Systems năm 1962.  Công ty mới này cung cấp phục vụ và thương mại với hệ thống sử dụng các dữ kiện.  Sự nghiệp khởi đầu này trở thành một thương vụ phá đạt.  Năm 1968, ông trở thành một triệu phú khi đưa công ty của mình, EDS, ra thị trừơng chứng khoán.                

Ngoài hoạt động thương mạị, ông Perot là người hoạt động rất hăng hái trong vấn đề có liên quan đến tù nhân chiến tranh và các binh sĩ bị mất tích trong cuộc chiến Việtnam.  Ông đã tổ chức một cuộc giải cứu rất liều lĩnh cho hai nhân viên của mình bị bắt làm con tin ở Iran năm 1979.  Chiến dịch giải cứu này về sau trở thành cốt truyện cho quyển sách của tác giả Ken Follett tên : “ On Wings of Eagles” (Trên Cánh Đại Bàng).

General Motors (GM) đã mua một phần lớn EDS bằng tiền mặt và cổ phần của GM. Nhưng sau đó ông có bất đồng ý kiến lớn trong thương vụ này.  Hai năm sau, ông bán cổ phần của GM lại cho công ty theo yêu cầu.  Ngay sau đó, ông lập một doanh nghiệp khác lấy tên là Perot Systems.

Lúc nào cũng quan tâm về chính trị,, ông quyết định bước vào chính trường mùa xuân năm 1992.  Ông bất mãn với TT George H.W. Bush, và không thích những ứng viên của Đảng Dân Chủ.  Đặt mình trong cương vị là một người đứng ngoài xu hướng chính trị thời đó, ông trình bày quan điểm xây dựng lại một nước Mỹ đang có vấn đề chính trị hiện tại.   Trong quyển sách: “ United We Stand: How Can We Take Back Our Country,”  ông nhấn mạnh về yếu tố đoàn kết trong nước. Ông cũng chia sẻ lập trừơng của mình trên TV trên toàn quốc bằng tiền tự mình bỏ ra mua chương trình.

Ông có lối nói chuyện rất bình dân và phát âm nhanh, lạ tai, và đã thu hút được 19% số phiếu phổ thông.   Ông là một ứng viên độc lập đầu tiên kể từ TT Teddy Roosevelt  hồi năm  1912 nhận được số lớn phiếu ủng hộ.  Ông lập Đảng Cải Cách năm 1995 và tranh luận với ứng viên Clinton lần nữa năm 1996, nhưng không được ủng hộ như trước kia.

Ông về hưu năm 2000 nhưng vẫn còn ở ghế chủ tịch sau khi nhừơng quyền lại cho con.

Ông không thực sự hoàn tòan bước ra khỏi chính trị. Năm 2012 ông ủng hộ cho ứng viên TT Mitt Romney.  Ông quan tâm về vấn đề mức sống tại Mỹ và các quyền tự do được hiến định.

Ông mất vì bị ung thư máu, ngày 9  tháng Bảy , năm 2019, tại Dallas, thọ 89.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.