Hôm nay,  

Thăm nhà văn già xứ dừa

01/08/201918:05:00(Xem: 4028)




C:\Users\samanh\Desktop\DSC02590.JPG
nhà văn Trang Thế Hy

Men theo ký ức đã mù mờ do năm tháng và những đổi thay của khung cảnh đường phố, tôi đến chỗ con rạch nhỏ gần một nghĩa trang bề thế ở ven châu thành Bến Tre, vô quán nước hỏi đường đến tư gia nhà văn Trang Thế Hy. Năm sáu cao bồi vườn xồn xồn đương hội họp nhâm nhi bia sớm hững hờ về cái tên xa lạ. Vài người lơ đảng nhúng môi vô ly tiếp tục chầu vui. Sắp thất vọng trở ra thì tiếng một cô gái lui cui bỏ dừa vô bao cà-ròn cách đó không xa hỏi vọng lại “Phải chăng bác hỏi  Ông Ba nhà văn?”. Tôi gật đầu cầu may và được chỉ đi dọc theo con kinh vào chừng 100 thước. Cô gái còn mách lẽo thêm ông Ba trong dịp Tết nầy mới lãnh giải thưởng văn nghệ cao cấp của tỉnh nhà. Mừng thầm cho nhà văn mình mến mộ, ít ra giải thưởng cũng đem lại chút ít vật chất cho người có công với văn nghệ khi về già, cũng như đem lại phần nào sự hãnh diện cho xứ sở đã sanh thành ra ông. Nhớ lại khi tôi còn rất trẻ đã đọc tác phẩm của ông, và những người nổi tiếng đồng thời như Lưu Nghi, Khổng Nghi... trên những số báo Nhân Loại in tại một nhà in trên đường Bến Chương Dương mà tôi nao nức đón đợi từng số một từ vài ngày trước khi số báo mới được phát hành. Sau nầy lớn hơn một chút, thỉnh thoảng đọc ông trên tạp chí Bách Khoa, cái rộn ràng chờ mong của thời mới lớn không còn nhiều nhưng sự thích thú thưởng thức không hề suy giảm. Ông viết ít nhưng mỗi bài đưa ra một vài vấn đề vang dội trong tâm trí người đọc. Truyện có dư vị đăng đắng, không ở trạng huống bi thảm trên số phận của nhân vật mà ở những cách  thế suy nghĩ, ở thái độ hành xử đặc biệt của nhân vật. Tất cả đều bước ra ngoài sự bình thường đơn điệu hằng cữu, khác xa với những phản ứng thường nhật thấy ở con người tiêu biểu, chung chung. Với tôi, truyện của ông nặng về lý trí hơn tình cảm, không dễ đọc một mạch để cho ta biết cốt lỏi của vấn đề, truyện ông kén người thưởng thức, nhưng khi người đọc đã chịu thì ông là một tác giả không thể quên trong bao nhiêu người viết mà mình từng hâm mộ.

Vào tới cửa ngỏ nhà ông, nhìn khu vườn không nhiều chăm sóc, cỏ phủ kín khoảng sân và hàng ba lót gạch tàu mốc rêu xanh dờn. Mấy con chó sủa vang dội. Một phụ nữ trung niên ra mở cái cổng khép hờ, la đàn chó và mời khách vào. Chúng tôi được mời vào căn chái bên hông nhà, có lẽ đó là nơi tiếp khách tươm tất nhất của chủ nhơn với chậu vạn thọ trong góc hè còn vương màu Tết. Ra tiếp chúng tôi với cặp mắt già nhấp nháy nhìn khách, ông cố lôi trong trí nhớ coi khách là ai. Dáng chậm chạp từ tốn pha trà, thong thả đặt khay mứt còn lèo tèo mấy miếng gừng, mấy cục thèo lèo xanh đỏ lên bàn mời khách như để kéo dài thời giờ đào sâu trong ký ức về một hình ảnh đã nhạt nhòa. Sau những câu thăm hỏi xã giao, chủ khách đã phá tan được lớp băng giá e dè khi nhà văn nhớ lại khách đã đến đây hàn huyên vài lần, câu chuyện trở nên thân tình hơn, vào trong tâm sự hơn khi khách nhắc đến vài bạn văn xưa đương thời với ông. 

Nhà văn năm nay đã 86 tuổi, đương sanh sống trên mãnh vườn nhỏ với hai người con cũng xấp xỉ 60, với chút ít huê lợi cây trái đắp đổi qua ngày,sức khỏe có suy nhược do tuổi già nhưng trí nhớ thì rất phi thường. Bặp bặp một hơi thuốc theo thói quen, ông chậm rải kể chuyện xưa, chuyện nay, thỉnh thoảng trầm ngâm về dĩ vãng, nhớ lại những biến cố trong đời hay những nhận định có nhiều giá trị. “....Tôi vào rừng Tây Ninh giữa năm 1963. Bị người tố cáo nên sau khi ở tù ra thì đi liền. Vào đó cùng sinh hoạt chặt chẽ với anh Lý Văn Sâm. Anh Sâm người hiền từ, ốm như tôi, lớn hơn tôi 4 tuổi, chúng tôi coi nhau là bạn văn, chia sẻ những suy nghĩ văn nghệ. Sau nầy về Sàigòn, chúng tôi vẫn còn thân thiết. Điều lạ là ở trong đó tên tôi là Tư Sâm. Tại sao hả? Tình cờ thôi, đặt là đặt vậy, không có lý do gì trong cái thứ và cái tên. Anh Lý Văn Sâm vào đó trước tôi sau khi phá khám, Dương Tử Giang bị chết trong vụ nầy...” Hoặc vài chi tiết vui vui: ‘Năm 1989 tôi được Hội Nhà Văn đề cử đi Liên Xô cùng với một người nữa, đi 10 ngày, mà xứ sở của người ta minh mông quá xá nên mình cũng chẳng thấy được bao nhiêu. Đời sống lúc đó chưa ổn định, cái áo veston thì mượn của Lý Văn Sâm, cái quần thì mượn của người khác. Lúc  đó...’. Nhà văn ngừng ngang, không nói hết ý, vài phút sau mới tiếp. “Bây giờ anh Lý Văn Sâm nằm ở nghĩa trang Thành phố, mã đá hoa cương rất đẹp...”

Tôi tìm trong ánh mắt nhà văn một tình cảm gì đó khi nói mấy chữ sau cùng, thoáng ao ước hay khen tặng.. Cặp mắt ông như xa vắng sau làn khói thuốc mỏng.

Người nghe ghi nhớ những chi tiết cần thiết, những chi tiết không phải dễ được nghe từ người có dính dáng đến những nhân vật thế thời.. Cuộc chiến vừa qua đã cuốn lôi bi thiết biết bao nhiêu người vào cuộc. Kẻ đúng người sai trong sự lựa chọn, kẻ tự nguyện kẻ bị dòng đời đẩy xô vào, nhưng tấm lòng vì nước của từng người, từng trường hợp cho đến giờ vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Tôi nhìn lại nhà văn, móm mém chậm chạp, phong trần theo dấu thời gian tuy nét thanh nhã xưa vẫn còn có thể nhìn thấy phưởng phất trong ánh mắt thiệt hiền từ và trong sáng.

Tôi nhắc về bức họa chân dung rất có thần treo trên vách mà mình thấy lần trước cách đây mấy năm, ông xác nhận chân dung đó do danh họa Nguyễn Trung, trong nhóm Họa Sĩ Trẻ của Sàigòn thập niên 60, vẽ tặng. Nguyễn Trung ít vẽ chân dung nam, dường như là chỉ vẽ có hai người thôi, còn đều vẽ chân dung phụ nữ. Tôi nghĩ lơ mơ về chỗ dựng xứng đáng của bức tranh nầy khi nhà văn nằm xuống, như bức tranh chân dung nhà văn Sơn Nam, chiếm một vị trí trang trọng ở nhà lưu niệm Sơn Nam nơi cống Bảo Định Tiền Giang, do họa sĩ thời danh Nhốp múa cọ...

Nhắc đến số lượng truyện ngắn của hai người, về những sáng tác gần đây, tôi phàn nàn rằng mình mất quá nhiều thời giờ cho những bài biên khảo và chuyện phiên âm chữ Nôm nên phần văn nghệ thuần túy không được phong phú như ý muốn, ông lý giải rất thuyết phục về sự đa dạng của văn chương. Có loại làm người đọc động lòng, có loại khiến độc giả động não. Loại nào cũng thể hiện được bản lĩnh của người cầm bút. Nhận định sâu sắc của nhà văn khiến tôi nhớ đến một truyện ngắn mà ông đăng trên tạp chí Nhân Loại ngày xưa, trong đó nhân vật chánh, một cô xẩm trẻ đã chê nhà văn nhát gan khi không dám cho nhân vật mình chết khi đáng chết.

Tôi bắt gặp ánh mắt trầm tư của nhà văn, vừa xa vắng vừa mỉm cười hóm hỉnh: ‘Truyện đó mang tình cảm sâu đậm của tôi. Sự thật trong truyện đó thiệt là nhiều. Cô xẩm trẻ sau đó chịu chết cháy vì không muốn làm đồ chơi cho một trọc phú đã đặt mua cô ngay khi cô tuổi mới 12, 13.’ Tôi không dám trơ trẻn hỏi về sự thật liên hệ giữa nhà văn và nhân vật nữ nầy ở ngoài đời. Có những điều bạn đọc, bạn viết muốn hỏi nhà văn lắm nhưng phải cố dằn lòng bỏ qua dầu biết rằng chi tiết đó sẽ đem lại một cái nhìn rõ ràng hơn về tác phẩm nào đó của nhà văn.

Hình như nhắc đến truyện ngắn nầy nhà văn nhớ đến chuyện tình yêu, ông đề nghị hai người chúng tôi, mỗi người đọc cho ông nghe về một bài thơ của Tagore mà ông đã dịch từ một bản Pháp ngữ mới in trong tập thơ mỏng Đắng và Ngọt

Tôi đọc, cố rõ từng chữ một vì là lần đầu tiên mình đọc bài thơ nầy. Bài thơ như đa số những bài khác của Tagore, thuộc loại ẩn dụ, không dễ gì thông hiểu khi chưa có nhiều thời giờ suy nghĩ: ‘ Em đã xếp tôi vào chỗ dành cho những người thua trận/ Tôi biết rằng quyền chiến thắng cũng như quyền rút ra  khỏi cuộc chiến không thuộc về tôi/ Tôi lao xuống vực thẳm, quyết chạm cho được cái đáy của vực thẳm ấy/ Tôi chơi canh bạc của người thua trận/ Tôi ném vào canh bạc ấy tất cả những gì tôi có, và khi đã mất tất cả mọi thứ rồi, tôi sẽ ném luôn vào đó tấm hình hài xương thịt của tôi....’ 

Nhà văn góp ý: ‘Kẻ thua bạc nầy đã đặt tới số vốn cuối cùng của đời mình. Đó là hình hài mình. Không còn diễn tả nào cặn kẻ hơn, tận cùng hơn về hình ảnh kẻ thua. Tận cùng!. Nhà văn thốt ra hai tiếng  ngắn gọn và lại trầm ngâm trong tư tưởng gợi ý từ lần nghe mới. Tôi thông hiểu tâm trạng đó. Bài thơ tuyệt phẩm là bài thơ khiến ta mỗi lần đọc lại khám phá ra thêm ý mới và dễ kéo ta vào những suy tư bất tận mới. Lâu lắm ông mới lên tiếng. ‘Bài thơ đưa ẩn dụ về tình yêu. Kẻ thua cuộc là kẻ không được yêu lại nhưng vẫn hết mình đối với tình yêu đó, kể cả cái chết . Yêu là vậy!’

Nhìn ông già móm mém hom hem bàn luận về chuyện yêu đương, về thơ ca diễm tuyệt, tôi thấy mình thật may mắn, thật hạnh phúc khi lắng nghe: Đời người không phải dễ có những phút giây như vậy. Duyên văn nghệ chăng, cơ may chăng? Cao hứng tôi xin phép đọc bài thơ mình  vừa khai bút đầu Xuân mấy hôm trước, tặng bạn văn già :

Sãy chân lạc bước xuống đời,/ Xin chào thế giới bằng lời u-oa./ Lưng còng mắt kém, sần da,/ Tay run gậy trúc, trí dần dà quên./ Thở hơi không nỗi nằm tênh. /Bao nhiêu chủng tử lềnh bềnh phổi gan./ Uổng công nắm bắt thời gian,/ Sá gì dẫu có triệu ngàn kiếp sanh /Ta bà vây khổn quanh mình,/An nhiên tự tại rẽ khinh mọi điều.’

Nhà văn nhắc lại hai câu cuối và chép miệng. ‘An nhiên tự tại không phải dễ gì. Rẽ khinh mọi điều còn khó hơn.’ Trước khi từ giã, tôi đề nghị chụp một bức hình lưu niệm. Ông đứng sát vô tôi, nhỏ nhoi, nhẹ hỏng, nói như dặn dò nghiêm nghị : ‘Tốt khoe xấu che nha, hình chụp làm kỷ niệm nha, không nên đưa ra công chúng lúc nầy.’ 

Tôi hiểu lời dặn như sự né tránh đám đông của người già. Tới tuổi nào đó sự đơn giản, hiu quạnh lại là thói ưa; ồn ào, hình thức phô trương nào về mình cũng làm mình thấy khó chịu... Trên đường về lại Sàigòn, gặp một  tấm bảng quảng cáo lớn bằng cả một tòa nhà đập vào mắt hàng chữ: “Chào mừng sự kiện tiêu thụ kỷ lục 1 tỷ lít bia X..”, tôi xúyt xoa với bạn đồng hành: ‘Phải chi một vài tấm bảng kia là hoan nghinh tim óc của của nhà văn già hết đời với xứ dừa thơ mộng thì hay biết mấy!’.Con đường về đượm nhiều nét âm u của buổi chiều tà, tự dưng tôi thấy buồn lòng với ý nghĩ đó.

blank


Nguyễn Văn Sâm (Sài-thành, đêm Nguyên Tiêu Tân Mão, 2011)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.