Hôm nay,  

Trời Cao Có Mắt!

12/10/201901:50:00(Xem: 7890)
TRỜI CAO CÓ MẮT!
 

Nam Lộc
 

Sau những cáo buộc đầy phi lý, không chứng cớ và bịa đặt, của một thiểu số người Việt dựa vào những nghi kỵ và tỵ hiềm cá nhân, thì vào ngày Thứ Năm 10 tháng 10, 2019 vừa qua, một phóng sự điều tra rất công phu, tỉ mỉ của hãng truyển thông lớn ở Canada là CBC News, đã được phổ biến dưới tiêu đề: “Làm thế nào một chương trình đặc biệt để tái định cư thuyền nhân Việt Nam để lộ ra những yếu kém của hệ thống di trú Canada” (How a special program to resettle Vietnamese boat people revealed flaws in Canada's immigration system)
 

Bài báo nói trên là một minh chứng rõ ràng phản lại những lời vu cáo thiếu đứng đắn, vô trách nhiệm nhằm vào tổ chức VOICE cùng một số thiện nguyện viên có lòng, nhưng cũng là nỗi buồn phiền cho các nhà bảo trợ có tâm và có đức trong nỗ lực giúp đỡ người đồng hương. Hậu quả chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tiến trình vận động định cư cũng như cuộc sống vốn đã khó khăn của đồng bào tỵ nạn VN đang lánh nạn tại Thái Lan hiện nay và mong có ngày được một quốc gia tự do cho phép họ định cư.
 

Qua phóng sự điều tra nói trên, không có bất cứ kẻ đưa ra những cáo buộc hay phóng viên nào của CBS News, kể cả các viên chức của chính quyền Canada đưa ra một bằng cớ chứng minh những việc làm mà họ cho là “bất hợp pháp” của VOICE như, “tráo người” hoặc “đưa người trái phép” vào Canada v..v... Ngược lại người đọc có thể sẽ thắc mắc: như vậy thì mục đích của sự “tố cáo” với các cơ quan truyền thông bản xứ về hoàn cảnh của đồng bào mình để làm gì, và lý do nào đã thúc đẩy họ làm việc đó?
 

Tuy nhiên, nếu gọi là “kết quả” của cuộc điều tra thì người ta nhận ra được những điểm chính sau đây:

Rõ ràng là tất cả sự nhận định hay phát biểu của mọi người, từ phóng viên, đến những vị lãnh đạo, điều hành các tổ chức được nêu tên trong bài báo như: Hiệp Hội Người Canada Gốc Việt (Vietnamese Canadian Federation - VCF)VOICE, BPSOS..., hay một số luật sư di trú Canada, đều đồng ý rằng, dựa theo các tiêu chuẩn mà chính phủ đưa ra trên giấy trắng, mực đen thì hầu như tất cả các thuyền nhân trong dánh sách được phỏng vấn đều hội đủ điều kiện, vì họ đều là thuyền nhân cũng như là người tỵ nạn đến Thái Lan trong khoảng thời gian từ 1984-1991 (ngoại trừ thân nhân hay con cái sinh ra sau thời gian đó). Tuy nhiên theo 4 người Việt Nam được phỏng vấn và “tố cáo” với báo chí Canada thì những ai “đã từng về VN, sẽ không hội đủ tiêu chuẩn” để được đi định cư!   
 

Cá nhân tôi có một vài nhận xét như sau:
 

1. Tại sao cơ quan di trú Canada không thắc mắc về vấn đề “trở lại VN”. mà chính người VN mình lại bận tâm rồi đi tố cáo với họ? Khi sự cáo buộc đó không thành công thì lại tìm cách “méc bu” báo chí bản xứ để làm khổ người mình?
 

2. Đối với những người từng bị “cưỡng bức hồi hương”, không ai có thể cho rằng họ “đã về Việt Nam”! Bởi vì khi một người bị cưỡng bức, bị trói và khiêng lên phi cơ như con vật, thì đâu phải là sự mong muốn hay chọn lựa của họ? Và nếu vì lý do nói rằng họ “không đủ tiêu chuẩn” để được đi định cư, tôi cho đó là một luận cứ thiển cận và ích kỷ!
 

3. Đối với những đồng bào đang lánh nạn ở Thái Lan, đôi khi vì nhớ thương gia đình hoặc vì một lý do khẩn cấp nào đó, họ lén lút vượt biên bất hợp pháp về lại VN một đôi lần, thì cũng đâu có thể nào cho rằng họ “ra vào VN một cách chính thức” như những người đã và đang tố cáo họ?

Toàn bộ bài viết và cuộc phỏng vấn không đưa ra một dữ kiện nào để hỗ trợ những luận cứ rất là vu vơ kết án tổ chức VOICE của 4 nhân vật người Việt được tờ báo phỏng vấn hay nhắc đến tên trong đó. Nhưng hầu như tất cả mọi người, kể cả một vị luật sư di trú Canada, ông Guiddy Mamann đều đồng ý một điểm và cho là "Bản Ghi Nhớ Liên Quan Đến Chính Sách Tạm Thời Về Một Số Người Việt Cụ Thể Tại Thái Lan ("Memorandum Of Understanding Relating To A Temporary Public Policy Concerning Certain Vietnamese Persons In Thailand — MOU") đã không được rõ ràng. Bài báo viết:

“Bản ghi nhớ này quy định rằng những người nộp đơn phải từ Việt Nam đến trong thời gian từ năm 1984 đến năm 1991, và phải đã cư trú tại Thái Lan – nhưng lại không nêu ra điều kiện cụ thể rằng họ phải sống ở Thái Lan liên tục trong suốt khoảng thời gian đó”.
 

Một số vị điều hành các tổ chức VCF và VOICE cũng được CBC News phỏng vấn, tất cả đều trả lời rõ ràng rằng họ không vi phạm bất cứ điều khoản nào do chính phủ Canada đưa ra trong tiến trình định cư những người Việt nói trên, và vai trò của họ là giúp đồng bào hoàn tất thủ tục điền đơn rồi nộp cho các viên chức của chính phủ Canada để được phỏng vấn và quyết định.


 

Điều này làm tôi nhớ đến tiến trình định cư hàng trăm ngàn thuyền nhân tại các trại tỵ nạn Đông Nam Á trước đây mà cá nhân tôi đã tham dự trực tiếp trong nhiều năm trời. Các cơ quan thiện nguyện như USCC, IRC, LIRS, CWS v..v.. (tương tự như vai trò của VCF, VOICE hoặc BPSOS...) giúp đồng bào điền đơn và hoàn tất hồ sơ để nộp cho Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, sau khi Cao Ủy cứu xét và cảm thấy những hồ sơ nào hội đủ tiêu chuẩn tỵ nạn thì họ sẽ trình lên cho đại diện của các nước định cư như Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Anh, Úc v..v... Sau đó mọi quyết định đều nằm trong tay các viên chức di trú của những quốc gia đó. Người tỵ nạn khai báo như thế nào, thành thật hay giả dối là hoàn toàn do sự thẩm định của viên chức phỏng vấn. Cơ quan thiện nguyện không chịu bất cứ một trách nhiệm gì. Ai đã từng vượt biên, vượt biển chắc cũng đều biết rõ điều này!
 

Tiến trình phỏng vấn hơn 100 thuyền nhân và ngưới tỵ nạn cùng thân nhân của họ tại Thái Lan cũng tương tự như vậy, có khác chăng là không có sự tham dự của Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, mà hồ sơ được trao trưc tiếp cho cơ quan thẩm quyền của chính phủ Canada tại Thái Lan để họ phỏng vấn. Trong thủ tục này, bài báo có đề cập đến 5 người mà họ cho rằng không phải là những người mà chính phủ Canada muốn giúp đỡ” (nhưng họ chỉ nêu tên 3 người: một là ông Võ Văn Dũng, cựu thuyền nhân, có người vợ tên Trương Lan Anh, không phải thuyên nhân, nhưng luật cho phép, vợ được đi theo chồng (hay ngược lại), bất kể mang quốc tịch nào và có tài sản hay không!  Còn một là ông Sabay Kieng, người tỵ nạn Việt gốc Campuchia).
 

Xin nhắc lại rằng tất cả hơn 100 người tỵ nạn nói trên đều nằm trong hai danh sách do linh mục Peter Namwong trao cho tổ chức VCF, VOICE, cũng như trực tiếp cho chính phủ Canada kể từ năm 2006, vì chỉ có ngài mới biết lai lịch của những người này mà thôi. Và kể từ ngày đó cho đến khi họ được cứu xét để đi tỵ nạn thì tất cả đều đã phải chờ đợi từ 8 cho đến 11 năm trời, tiếp tục cuộc sống bất hơp pháp ở Thái Lan. Biết bao nhiêu điều đã xảy ra, vật đổi sao dời!
 

Thật ra trong suốt hơn 20 năm sống ẩn dật ở Thái Lan kể từ khi trốn trại để tránh bị cưỡng bức hồi hương, người tỵ nạn đã phải tìm đủ mọi cách để sống còn, cũng như để kiếm tiền nuôi sống gia đình, kể cả làm giấy tờ giả để đi lại làm ăn, buôn bán. Sống chui rúc, hay sống sung túc là do họ tự phấn đấu với cuộc đời lưu vong nơi xứ lạ quê người. Có kẻ thì rất khấm khá, có người thì vẫn thiếu thốn. Tuy nhiên không ai, kể cả linh mục Namwong hay VCF hoặc VOICE biết được họ làm gì hay sinh hoạt ra sao? Trong lúc đó thì hồ sơ xin tỵ nạn của họ vẫn nằm đợi chính phủ Canada phỏng vấn! Khi được phỏng vấn, họ khai báo những gì, đúng hay sai thì những người không có thẩm quyền chẳng làm sao mà biết được!
 

Cho đến nay, nếu qua phóng sự điều tra này của CBC News, mà chính quyền Canada xem lại hồ sơ của các trường hợp trên và khám phá ra có sự sai sót trong qua trình cứu xét thì đó là trách vụ của sở di trú Canada, và hậu quả xẩy ra như thế nào thì người được họ phỏng vấn sẽ phải trả lời! Còn VOICE vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ thiêng liêng, vô vụ lợi của mình là giúp người bất hạnh, giúp được người nào, hay người đó. VOICE cũng tha thiết mong mỏi các cá nhân, các hội đoàn quan tâm đến người tỵ nạn, khi nghe họ kêu gào “xin hãy cứu giúp chúng tôi”, thì hãy cứu họ một cách thực tế, đó là vận động cho họ được các quốc gia tự do đón nhận. Chỉ trích hay moi móc những sơ hở của chương trình định cư như tựa đề của bài báo sẽ chẳng giúp gì được cho đồng bào, ngược lại chỉ tạo thêm khó khăn và nguy hiểm cho cuộc sống của họ hiện nay mà thôi!

blank
Đồng bào tỵ nạn VN tại Thái Lan hiện nay
  
Một trong những điểm đáng lưu ý, là ở phần cuối của phóng sự truyền hình cùng đề tài của CBC News TV, cô xướng ngôn viên Canadian có nhắc khán thính giả một câu rằng: “Các viên chức liên bang không nói cho chúng tôi biết là có một người nào đang bị điều tra hay không?”. Tuy nhiên tổ chức VOICE lại rất mong chính phủ Canada sẽ có một cuộc điều tra sâu rộng để giải tỏa mọi lời đồn đoán thiếu trung thực, đồng thời bạch hóa những việc làm hợp pháp của VOICE.
 
Trước đây, mỗi khi đối chất với những kẻ vu khống việc làm của VOICE nhưng không trưng được bằng cớ nào, thì họ đều vu vơ nói: Chỉ có Trời mới biết mà thôi! Nay thì Trời đã trả lời và minh oan cho những việc làm nhân ái của các thành viên tổ chức nhân đạo này ở khắp nơi trên thế giới. Và quả đúng là: Trời Cao Có Mắt.
 
Nam Lộc  



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.