Hôm nay,  

Mại Dô, Mại Dô

16/10/201900:00:00(Xem: 4414)

“Kính thưa bà con cô bác, hườn này bổ nhất, tật bệnh tiêu trừ, phẻ như ông kẹ, tể này thậm phê, ông uống bà khen… maị dô, maị dô, tiền trao cháo múc, mua một tặng hai… maị dô, maị dô…” gánh Sơn Đông Mãi Võ của nhóm Thập Môn Đường vừa múa võ bán thuốc tể, hườn, đan, cao đơn hoàn tán…Anh lực sĩ nằm trên bàn chông cho người khác lấy búa tạ đập mà không hề hấn gì. Người ta xếp lớp vòng trong vòng ngoài, vừa coi vừa reo hò thán phục; tiếng vỗ tay rào rào, tiếng bạc cắt quăng vào lon bơ lẻng xẻng. Xéo bên góc Trần Bình một nhóm khác đang biểu diễn môtô bay. Cái thùng gỗ như thùng nước mắn nhưng to ơi là to. Các tay xiếc cho xe chạy vòng vèo bên trong thùng, tiếng reo hò ầm ĩ, tiếng xe inh ỏi gầm rú, mùi khói xăng dầu xông lên muốn ngạt thở… ấy vậy mà gã cùng cậu em họ coi say mê, một suất chưa đủ phải chen lấn mua coi thêm xuất nữa…

  Chợ lớn những tháng ngày năm ấy thật đẹp và êm đềm. Gã thích ra chợ lớn đi dạo quanh tượng ông Thông Hiệp (tên thật là Quách Đàm) có bốn con rồng chầu phun nước! sỡ dĩ người ta kêu là Thông Hiệp vì có người tặng ổng câu đối:

Thông thương sơn hải

Hiệp quán càn khôn

 (Thông thương sơn hải thì hợp lý, có lẽ vì ông là tay thương lái cự phách, mua bán nông-lâm-hải sản cự phách, tất cả sản vật của núi rừng, biển cả hay ruộng vườn… xuất đi khắp các xứ xa gần. Câu sau thì đaị ngôn, quá lối làm gì mà đến hiệp quán càn khôn, tác giả tâng bốc quá đáng!)

 Đã ra chợ Lớn thì phải ghé qua hàng trái cây, chạy dọc mé Trần Bình. Mùi sầu riêng, xoài…thơm bể lỗ mũi, không chỉ muì trái cây mà còn mùi sình lầy cống rãnh thum thủm bốc lên, mùi rác rến úng thối…nó quyện vào nhau làm thành một cái mùi không sao tả được, dù đã ba mươi năm mà không thể quên được mùi trái cây ở mé đường Trần Bình.

 Gã và người em họ đèo nhau trên chiếc xe đạp rong ruổi quanh chợ Lớn, những khu vực sau lưng chợ Lớn như cầu Ba li Kao, những con kênh đặc quánh rác, đen ngòm; những địa danh như: lò Gà, lò Đất…rặt người Hoa, không có một mống Việt, Tiếng Tiều là dĩ nhiên. Những khu này nó giống những thị trấn nào đó bên Tàu ở thế kỷ 18… cuộc sống, lịch sử gần như dừng ở đây mặc ngoài kia xe cộ nườm nượp, phát triển thế nào thì phát. Gã thích ăn hàng, những xe bột chiên, trái cây, sương xáo… quả thật bá cháy! đặc biệt xe kem Tân lạc Viên là không thể nào quên với món kem sầu riêng. Sau ba mươi năm nhưng bây giờ nó vẫn còn đấy những xóm người Hoa vẫn như ngày nào! Dù chưa về ghé thăm nhưng qua những người thân thì những xóm ấy vẫn thế, không có gì thay đổi mấy, vẫn mãi  giống như những tiểu trấn Tàu ngày xưa. Mặt tiền bên ngoài với những: Trang Tử, Đồng Khánh, Châu Văn Liêm… vẫn là những China Town như những China Town khác trên thế gian này! cái đặc trưng tương đồng nhau: tiếng Hoa thống trị, mua bán đủ thứ, ồn ào, dơ dáy…và thức ăn thì…người Việt mê tít thò lò!  Người Hoa dù đi đâu, sống ở đâu, dù bao đời…Họ vẫn nói tiếng Tàu, viết tiếng Tàu…Họ chỉ biết có Taù của họ thôi. Họ gần như không đếm xỉa gì đến những miền đất nuôi họ, dung chứa họ. Tâm hồn họ, ngôn ngữ họ, chủng tộc họ, phong cách họ… chỉ có một chữ Tàu, cho dù họ sống ở Chợ Lớn, Paris, London, Los Angeles… thậm chí ở mặt trăng! Họ có thể là những ông trùm, những băng đảng, hay những người lao động hiền lành chấc phác…

 Chợ Lớn không phải là trái tim của Sài Gòn nhưng nó là đãy bạc, là nồi cơm của Sài Gòn. Những ngày tháng ấy, Chợ Lớn cung cấp cho SàiGòn, cho cả nước… những món hàng gia dụng cho cuộc sống hàng ngày. Ông Thông Hiệp là một tay cự phách, từ người di cư nghèo khổ mà gầy dựng nên cơ nghiệp lẫy lừng, hàng hoá nông sản xuất sang các xứ: Mã lai, Phi Luật Tân, Tân gia Ba…và cả Pháp nữa. Ngày ngay cơ nghiệp vẫn còn đấy: Nhà lồng Chợ Lớn, các dãy nhà quanh Chợ Lớn…Ông ra người thiên cổ nhưng gia sản vẫn còn đây! 

  Cứ mỗi mùa hè là gã được ngoaị dắt lên SàiGòn chơi. Gã với người em họ đèo nhau rong ruổi khắp SaìGòn- Chợ Lớn. Người em họ của gã là một tay tháo vát, chiếc xe đạp của y gắn toàn đồ xịn nên chạy nhẹ và êm lắm. Những năm ấy xe máy rất ít, chỉ có vài nhà còn giữ được, chiếc Honda Dame hay chiếc Honda 67. Nhớ có lần hai đứa đèo nhau từ Chợ Lớn lên Sài Gòn chơi. Gã sờ vào cánh cổng dinh tổng thống mà thấy xốn xang lạ lùng, một cảm giác thật không sao tả nổi! (rồi nhiều năm sau đi chơi Huế, gã laị sờ phiến đá của tường thành laị có một cảm giác cũng lạ lùng y như thế!) . Sài Gòn năm ấy còn ít người, xe cộ không bao nhiêu nên còn sạch sẽ, thơ mộng, xanh và đẹp lắm!  người ta đồn đại:” Ăn quận Năm, nằm quận Ba, hát ca quận Nhất” , quả không sai tí nào, muốn ăn ngon thì nhất định phải về Chợ Lớn. Người Hoa là vua của việc mua bán, nấu nướng mà!  mấy ông Xì Thẩu bụng phệ, cởi trần trùng trục, giắt cái khăn vào cạp quần xà lỏn, tay cầm hai cái xẻng xúc, cào lẻng xẻng trong cái chảo… mùi thức ăn thơm nức mũi, khách ngồi chờ nuốt nước miếng cái ực khi mà dĩa mì xào, hay hủ tiếu xào được mang ra!  Chợ Lớn là thế…Ba mươi năm rồi mà mùi trái cây và mì xào Chợ Lớn vẫn cứ thơm trong hốc mũi không phai.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng Thành, 2018

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông trẻ nhỏ. Cùng lứa với tôi, có cả tá nhi đồng mà tên gọi đều bắt đầu bằng chữ út: Út lé, Út lác, Út lồi, Út lùn, Út hô, Út còi, Út ghẻ, Út mập, Út sún, Út sứt, Út méo, Út hô, Út đen, Út ruồi, Út xẹo, Út trọc … Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu (lôi thôi) kiểu cách, theo kiểu Âu Tây: – Còn đây là thằng út, nó tên là Út rỗ. Vùa lọt lòng thì cháu rơi ngay vào một cái … thùng đinh! Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út khùng. Lý do: khi mới chập chững biết đi, tôi té giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ mặt mày tím ngắt, chân tay xụi lơ, bụng chương xình, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.
Chúng ta thấy gì qua những cuộc biểu tình và bạo lực tiếp theo sau cái chết của người thanh niên da đen George Floyd bị người cảnh sát da trắng Derek Chavin dùng đầu gối đè cổ nghẹt thở chiều ngày 25-5-2020 tại thành phố Minneapolis, bang Minnesota? Hàng trăm cánh sát dã chiến với trang bị tác chiến và măt nạ chống khói độc đối đầu với hàng ngàn người biểu tình đòi công lý cho George Floyd và đòi được sống bình đẳng với người Mỹ da trắng. Đó là cuộc đấu tranh chính đáng chống lại áp bức, chống lại bất công của một xã hội đa chủng đa văn hóa như nước Mỹ.
Có vài kinh điển đã nói đến chiến tranh và dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng tìm cách biến đổi quan điểm thông thường của thế gian là bạo lực cũng đôi khi cần thiết bằng cách là đối thoại với một lý tưởng không dùng bạo lực. Về điểm này, Phật có nói đến mình như một người xuất thân từ giai cấp lãnh chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có bình luận về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lãnh thỗ của chú mình là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín đồ của Ngài, và được coi như là người luôn làm việc thiện. Trong cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến thắng gieo thêm hận thù, người bại trận sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một đời sống an hoà, từ bỏ đưọc mọi chuyện thắng thua. Điều này cho thấy rõ rằng sự chinh phục đem lại bi đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa tới thù hận và dường như chỉ muốn chinh phục lại kẻ chinh phục.”
Chiều ngày 29/5 sau phiên xử phúc thẩm, một người dân ở xã Bình Phước, ông Lương Hữu Phước, đã trở lại toà án và nhảy từ lầu hai của toà để tự sát. Hình ảnh ông nằm chết, co quắp ngay trước sân toà nói lên nỗi tuyệt vọng, sự cô đơn cùng cực của người dân VN trước các phán quyết của toà án. Tôi chạnh nhớ đến câu nói của thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh trong phiên phúc thẩm của anh: “một lũ bất nhân đã làm ra phiên toà bất công”.
Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi! Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
Hoa phượng được Nhất Tuấn gọi là hoa học trò vì thuở đó hầu như ngôi trường nào cũng trồng cây phượng trong sân trường. Khi phượng đơm hoa báo hiệu cho mùa Hè cũng là thời điểm chia tay sau niên học. Để lưu niệm, nữ sinh đóng tập Lưu Bút giấy pelure xen kẽ các sắc màu, trông thật nhã, ghi cảm nghĩ cho nhau… Ở lớp Đệ Tứ, không còn học chung nhau vì lên lớp Đệ Tam theo ban A, B, C và lớp Đệ Nhất là thời điểm chia tay vĩnh viễn, tập Lưu Bút dày hơn, chia sẻ, tâm tình… của tuổi học trò. Hầu như nam sinh không có Lưu Bút, chỉ được xía phần, dù có tinh nghịch nhưng phải viết đứng đắn, lịch sự.
Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/Trung/Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và chuân truyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.