Hôm nay,  

Sợ Chết

17/10/201918:56:00(Xem: 9730)


C:\Users\Van\Desktop\Time-Is_Up.jpg


Sắp hết giờ - Tới kẻng rồi!


*


“Dù ngươi ở đâu đi nữa, sự chết sẽ tìm đến ngươi.”

(Wherever you are, death will find you.)

- Quraan [4:78]


*


Cũng chẳng có gì lạ.  Tự nhiên, con người sẽ làm đủ mọi cách có thể làm được để sống… sống lâu hơn, để khỏi chết sớm.


Nếu quý vị tin vào Thánh kinh thì thấy rằng con người được Thượng đế sinh ra để sống đời đời (Ecclesiastes 3:00); nhưng chỉ vì ông Adam nghe lời quyến dụ của ma quỷ làm trái ý Thượng đế cho nên con người từ đó sinh ra rồi sẽ chết để đền tội tổ tông (Romans 6:23).


Nếu quý vị không tin vào Thánh kinh thì xin mời đọc qua sách về bộ óc của con người (brain books).  Sách vở và các khảo cứu y khoa cho thấy, ngoài một số trường hợp ngoại lệ, bộ óc (và các cơ quan quan trọng khác) của con người không thể sống lành mạnh quá tuổi 80.  Thực tế quả thật như vậy; và cũng thực tế này làm chúng ta phải trở lại suy nghĩ về sự kiện Thánh kinh đã nói (?!)


Con người ta sợ chết vì không đủ khả năng để hiểu hết về thực tế của sự sống.  Từ lúc sinh ra, rồi lớn lên, chúng ta được dạy dỗ rất nhiều cái không tốt (negative) về “sự chết” qua ngay cả các giá trị và niềm tin tôn giáo.  Thiên Chúa Giáo chỉ nói một lần tốt (positive) về sự chết là việc Chúa sống lại (Resurrection of Jesus Christ) như một ám chỉ là không có sự chết; nhưng ngay sau đó Thiên Chúa Giáo lại dùng tất cả kinh sách còn lại để nhấn mạnh về sự chịu đựng đau đớn và cái chết của Chúa Giê-su.  Trên tường của hầu hết các trường học và nhà thờ Công giáo đều có treo các hình ảnh, tượng Chúa Giê-su chịu sự hành hạ thể xác đau đớn và cuối cùng Chúa bị đóng đinh chết trên thập tự giá. Đó là hình ảnh thật của sự chết chứ không phải vinh hiển của sự chết.


Có khi nào đó, quý vị tự hỏi là: “Tại sao, trong giấc mơ, khi thấy mình bị chết thì tự nhiên cũng là lúc thấy mình chợt thức giấc?”  Lý do là vì bộ óc (và sự thông minh) của con người không cho chúng ta biết sau khi chết con người sẽ đi về đâu? Sẽ ra sao?!  


Rất nhiều vấn đề thần học còn đang được tranh cãi.


Có địa ngục hay thiên đường hay không?  Không ai biết.  


Linh hồn mình sẽ thoát ra khỏi thể xác; có thể tiếp tục đi loanh quanh đâu đó; tiếp tục sinh hoạt cùng với các hồn ma khác; hay cùng với các người còn đang sống?  Không ai biết.  


Mình sẽ được đi đầu thai lại kiếp khác hay không?  Không ai biết.  


Có phải mình là người “Trang Tử mơ hóa bướm.”  Có nghĩa là không biết đời sống này thật hay chỉ là giấc mơ (mình hiện đang là người? hay là bướm?): Lúc chết cũng sẽ là lúc thức dậy để sống một cuộc đời thật?  Không ai biết.  


Những cái “Không ai biết” vừa kể làm cho “Sự Chết” là một chuyện huyền bí.


Sợ chiều cao; sợ nước; sợ lửa; sợ động đất; sợ súng đạn; sợ dao búa, sợ ma; sợ thú dữ; sợ nhện; sợ rắn…. sợ lung tung đều  là tâm thức (conscious) của sự sợ chết; hay nói cách khác con người không muốn chết.  


Tôi nhận thấy rằng sự đau đớn (thể xác hay tâm hồn - pain/suffering) và sự chết có nhiều liên quan mật thiết với nhau. 


Khi một người tuyệt vọng muốn chết, muốn tự tử chẳng hạn, chỉ vì họ muốn đi thoát ra khỏi sự đau đớn hoặc khổ sở.  Người bệnh nặng muốn được chết vì không chịu nổi sự hành hạ của cơn bệnh. Không có người già nào muốn chết hay sẵn sàng chấp nhận cái chết.  Họ muốn sống cho đến lúc... chết. Ngay cả những anh hùng chết vì các hy sinh cao cả; nhung nếu họ có một lưa chọn khác, với cùng kết quả, thì tôi cam đoan là họ vẫn muốn chọn sự sống.


Không phải chỉ có con người mới sợ chết; Thú vật cũng sợ chết vậy.  Thí dụ: Thú rừng thấy sư tử, cọp là hoảng, chạy dài vì sợ chết sớm. Tuy nhiên khi về già, thú vật có vẻ chấp nhận cái chết bình thản hơn con người.  Chó già bắt đầu ngừng ăn để chờ chết; Voi già thường tìm mọi cách trở về lại chỗ nó sinh ra để chờ chết. Ngược lại, con người thì lại tìm đủ mọi cách để sống thêm ngày nào hay ngày đó; nếu được phép để cho chết một cách tự nhiên, không bắt đắc kỳ tử.


Nói chung, cá nhân tôi nhận thấy con người ai cũng sợ chết là vì:


- Người giàu sợ chết vì phải bỏ lại tài sản mà họ đã đổ mồ hôi, máu và nước mắt suốt cuộc đời để gây dựng.  Họ muốn sống lâu để tạo ra thêm tiền; thêm của cải; và có dịp an hưởng sự giàu có.


- Người nghèo sợ chết vì thấy cuộc đời mình còn nhiều “bất công.”  Mặc dù cái chết có thể giúp họ thoát khỏi những khó khăn, đau khổ của cuộc sống; nhưng họ vẫn muốn sống để mong thấy may mắn có thể sẽ xảy đến cho họ ở “phút cuối cùng.”


- Người bình thường (không giàu mà cũng không nghèo) đang sống yên ổn thì sợ chết vì phải bỏ lại những người thân yêu: cha mẹ già, con thơ, vợ dại. Bỏ lại những ước  mơ, kỳ vọng, hạnh phúc dở dang chưa đạt được.


Đối với loại người “sợ đủ thứ” (sợ vợ, sợ vớ vẩn…) thì chết là một ác mộng (!) Không biết có đời sống sau khi chết hay không?  Có còn ai nhớ đến mình sau khi chết?  


Muốn sống cho lâu, thiển nghĩ hãy chịu khó làm theo lời hướng dẫn của các đấng thiêng liêng và một số hiền giả sau:


- Khổng Tử đã dạy chúng ta một chân lý muôn đời:


“Khôn chết.  Dại chết. Chỉ biết mới sống.”


- Charles Darwin, một khoa học gia nổi tiếng về sự Tiến hóa, giải nghĩa rõ hơn về điều mà Khổng Tử nhắc nhở (“biết”):


“Khôn chết. Dại chết.  Biết thích ứng (adapt) thì sống.”


- Đức Phật  


Có ngưởi hỏi Đức Phật là:


“Thầy ngồi thiền thì được (gained) gì?”


Đức Phật trả lời:


“Ta chẳng được gì cà (I gained ‘NOTHING’).  Nhưng ta sẽ mất đi (have LOST) sự tức giận, sự buồn phiền, sự bất an và nhất là sự sợ chết…”


- Đức Chúa Giê-su


Chúa phán rằng:


“Ta là bánh hằng sống từ trên trời xuống; nếu ai ăn bánh ấy, thì sẽ sống vô cùng…”

"Jesus states that 'he who eats my flesh and drinks my blood has eternal life.' "

- John 6:51


Tóm lại, chỉ lo cho sự sống thôi là đủ toát mồ hôi… trán rồi. Lo sợ làm cái quái gì vô ích về Sự chết vì chuyện đó đã có cả một “kỹ nghệ chuyên ngành” (ngành thương mại về Hậu sự) lo rồi; Đâu có tới phần mình. Lo bò trắng răng hà?!  


Mọi người đều có số cả.  It is not over until it is over!  OK.



Trần Văn Giang

10/18/2019

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.