Hôm nay,  

Khế Cơ

29/11/201900:00:00(Xem: 5217)

Buổi cơm tối sum họp cả nhà rất vui vẻ, sau ngày làm việc mệt mỏi nhưng khi cả nhà quây quần bên mân cơm thì tự nhiên khoẻ hẳn laị. Tài lanh miệng khen:

- Thức ăn ngon quá, mẹ thật là khéo tay.

Bà Mai cười cười, nhìn Tài đầy trìu mến:

- Thôi đi ông tướng, được cái dẻo miệng

Mấy anh chị cười như nắc nẻ phụ họa thêm vào:

- Đúng đó mẹ, thằng tài miệng như thoa mỡ vậy nên mấy cô theo rần rần!

Bà Mai bảo:

- Mình con nhà Phật, đào hoa thì đào hoa nhưng phải sống sao cho có đạo đức nghen con. Mai con chở mẹ lên chùa lễ Phật và dâng sớ cầu an luôn thể.

Tài cãi laị:

- Lên chùa lễ Phật thì được nhưng việc dâng sớ, cúng sao… là hổng nên làm. Mẹ biết không? Đó là đức tin của người Tàu, dần dần đưa vào cữa chuà  riết rồi thành ra vàng thau lẫn lộn!

Bà Mai không chịu:

- Mẹ không biết nhưng ông bà mình xưa nay làm thì mẹ cũng làm theo thôi! 

Tài biết không thể làm mẹ thay đổi định kiến được nên không noí gì thêm. 

Hôm sau tài chở mẹ lên chùa, bà Mai vào đội sớ, viết danh sách cầu an cho cả nhà… Tài thì ra ngoài sân tìm bóng mát ngồi và hý hoáy lướt mạng trên di động. Chơi chán Tài laị ngồi suy nghĩ vẩn vơ. Tài không thích cảnh hàng ngàn người đang đội sớ và hy vọng vào sự cầu nguyện sẽ giải  được hạn từ các ngôi sao trên bầu trời kia. Tài thương mẹ, biết mẹ cũng như những bà, những cô đang tin vào một thứ phi pháp nhưng mượn danh Phật pháp. Những ngôi sao xa xăm trên bầu trời với những cái tên đậm chất Tàu kia làm sao có thể gây họa hay đem laị phước lành cho con người được! Năm xưa Thế Tôn còn taị thế ngài từng dạy cho một vị Bà La Môn: Ngài ném viên sỏi xuống hồ rồi bảo ông ta cầu nguyện cho nó nổi lên đi, dĩ nhiên nó không thể nổi. Xong ngài thả chút dầu trên mặt nước , đoạn ngài bảo ông ta nguyền rủa cho nó chìm đi, dĩ nhiên dầu không chìm. Sau đó ngài mới nói với ông ấy, phước hay họa đều do từ tư tưởng, hành vi, lời noí của mình mà ra. Không có ai và cũng không có vật gì có thể gây họa hay ban phước cho con người cả! Đạo Phật được truyền qua Trung Quốc, rồi bị Tàu hoá, thêm vào những phong thuỷ, bói toán, xin xăm, cúng sao… rồi từ đó truyền sang Việt. Người Việt laị rập khuôn y vậy. Có thể ban đầu các tổ dùng nó như là phương tiện để dẫn dụ nhưng dần dần hoá ra thâm lạm. Bây giờ chùa chiền không có giảng kinh, học pháp… mà phần nhiều chỉ lo xây cho to, tổ chức cúng sao, dâng sớ rầm rộ, thậm chí mời ca sĩ về chùa hát hò… coi đó là Phật sự! Tài biết mẹ cũng như những phụ nữa kia đã tin sâu vào việc ấy, không thể một sớm một chiều thay đổi được; vả laị cũng không thể trách vì nếu đem Pháp Hoa, Bát Nhã, tánh Không ra mà giảng thì các bà các cô ấy cũng làm sao mà tiếp thu được! Tài thấy những tín đồ các tôn giáo khác họ am hiểu và nắm vững giáo lý của họ lắm. Còn hàng Phật tử chúng ta thì rất mơ hồ về giáo lý Phật pháp, không biết Phật dạy gì… Phần nhiều cứ lên chùa đốt nắm nhang, bỏ ít tiền vào thùng phước sương , khấn vái sao cho gia đình bình an, làm ăn phát tài, vận hạn hanh thông… thế là hết! sự việc này quả thật là vấn đề nan giaỉ, khó mà trách ai, “ Tại anh taị ả, tại cả đôi đàng” . Phần Phật tử không chiụ học, phần các chùa cũng không biết cách làm sao cho Phật tử biết cái cốt lõi của giáo lý Phật Pháp là gì! Phật pháp mênh mông, kinh điển  chất như núi… Hàng Phật tử sơ cơ làm sao mà biết từ đâu? thế nên cứ theo cái lệ cũ xưa nay. Tài từng thưa với thầy về chuyện này, thầy cũng bảo:

-           vấn đề này lớn và nan giải lắm,  hiện thời cũng chưa biết làm sao! May ra giáo dục từng chút một. nếu mình đột ngột  xoá bỏ hết xin xăm, cúng sao, dâng sớ… hay những việc tương tự thì sẽ gây ra một sự xáo trộn không nhỏ! Vả laị chỉ chùa mình làm không thì sẽ thất baị.  Việc này phải cậy vào  cả cộng đồng tăng- tục cùng làm và làm từ từ từng chút một mới có thể thay đổi! Con biết không? Phật giáo nước mình rực rỡ ở thời đaị Lý-Trần  mà đỉnh cao là dòngThiền Trúc lâm. Sự hưng thạnh đến nỗi sử gia Ngô Sĩ Liên viết: “ Dân trong nước quá nửa cạo đầu làm sư sãi”. Sau đó thì suy tàn kéo dài suốt thời Lê Trung Hưng, rồi hai trăm năm Trịnh- Nguyễn phân tranh,  sau nữa thì Pháp thuộc… Những hình thái không phải của Phật giáo pha trộn vào. Hàng Phật tử không còn biết đến giáo lý… Tất cả chỉ đơn giản là ăn chay vài ngày trong tháng, đốt nhang khấn vái… Và hiện nay khi có chút cởi mở trong nghi lễ tôn giáo và có sự lèo có mục đích của thế lực thế tục. Việc cúng bái mê tín càng trở nên trầm trọng hơn!  Thầy trăn trở nhiều lắm, thầy cũng có đưa ý kiến lên các bậc có trách nhiệm nhưng không thấy trả lời.  Thầy chỉ còn cách làm những gì trong giới hạn của mình mà thôi! Thầy vẫn cúng sao, đọc sớ cho các bà, các cô… nhưng thầy vẫn  tìm mọi cơ hội để noí về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo cho họ. Thầy biết hàng Phật tử sơ cơ thích gì và  quán sát khả năng tiếp thu của họ. Con là Phật tử có chánh kiến nhưng không vì vậy mà cản trở việc lễ cúng của mẹ con. Bà ấy chừng tuổi đó làm sao thay đổi tư duy được! Có thể bà ấy và những bà khác không nắm vững giáo lý nhưng việc làm cúng kiếng, bố thí, ăn chay… vẫn là nội hàm Phật Pháp đấy! Con là người trẻ, tư duy nhạy bén, chiụ đọc chiụ học giáo lý thì con phải biết tính khế cơ khế lý, không thể cứng nhắc, chấp chặt được. Nếu đạo Phật mà không uyển chuyển thì không thể lan tỏa đến nhiều vùng với nền văn hoá khác nhau và cũng không thể tồn taị hơn hai mươi lăm thế kỷ qua! Cốt lõi của đạo Phật là giải thoát chứ không phải ở văn tự, kiến thức!

 Hai thầy trò tâm sự khá lâu, moị người ăn uống  và dọn dẹp bên trai đường cũng xong. Bà Mai bước ra gặp thầy bèn chắp hai tay xá thầy: 

- Bạch thầy, Thầy noí giùm với ông tướng của con vài lời, ổng cứ phàn nàn con  mê tín, không chịu vào chùa dâng sớ giaỉ hạn. Nếu con mà không cúng giải hạn thì lấy đâu cả nhà an ổn bao năm nay!

Thầy cười:

-           Mô Phật, bác thật thành tâm nhưng bọn trẻ nó có tư duy của nó, hơn nữa cậu ấy có chánh kiến đấy bác! giữa hai thế hệ cũng có chút khác biệt. Bác cứ làm theo lối của bác, cậu ấy thì học và hành theo lối cậu ấy! 

Hai mẹ con cuối đầu chào thầy rồi ra về. Bà Mai  ngồi sau xe có vẻ tự hào:

- Đấy, con thấy không? thầy có bảo  mê tín gì đâu! mẹ nhất định hàng năm phải lên chùa dâng sớ giải hạn! 

Tài  mỉm cười :

-           Thôi thì mẹ cứ làm vậy nhưng phải chọn ngôi sao nào sáng nhất cho con đấy! 

 

Tiểu Lục Thần Phong

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông trẻ nhỏ. Cùng lứa với tôi, có cả tá nhi đồng mà tên gọi đều bắt đầu bằng chữ út: Út lé, Út lác, Út lồi, Út lùn, Út hô, Út còi, Út ghẻ, Út mập, Út sún, Út sứt, Út méo, Út hô, Út đen, Út ruồi, Út xẹo, Út trọc … Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu (lôi thôi) kiểu cách, theo kiểu Âu Tây: – Còn đây là thằng út, nó tên là Út rỗ. Vùa lọt lòng thì cháu rơi ngay vào một cái … thùng đinh! Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út khùng. Lý do: khi mới chập chững biết đi, tôi té giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ mặt mày tím ngắt, chân tay xụi lơ, bụng chương xình, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.
Chúng ta thấy gì qua những cuộc biểu tình và bạo lực tiếp theo sau cái chết của người thanh niên da đen George Floyd bị người cảnh sát da trắng Derek Chavin dùng đầu gối đè cổ nghẹt thở chiều ngày 25-5-2020 tại thành phố Minneapolis, bang Minnesota? Hàng trăm cánh sát dã chiến với trang bị tác chiến và măt nạ chống khói độc đối đầu với hàng ngàn người biểu tình đòi công lý cho George Floyd và đòi được sống bình đẳng với người Mỹ da trắng. Đó là cuộc đấu tranh chính đáng chống lại áp bức, chống lại bất công của một xã hội đa chủng đa văn hóa như nước Mỹ.
Có vài kinh điển đã nói đến chiến tranh và dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng tìm cách biến đổi quan điểm thông thường của thế gian là bạo lực cũng đôi khi cần thiết bằng cách là đối thoại với một lý tưởng không dùng bạo lực. Về điểm này, Phật có nói đến mình như một người xuất thân từ giai cấp lãnh chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có bình luận về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lãnh thỗ của chú mình là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín đồ của Ngài, và được coi như là người luôn làm việc thiện. Trong cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến thắng gieo thêm hận thù, người bại trận sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một đời sống an hoà, từ bỏ đưọc mọi chuyện thắng thua. Điều này cho thấy rõ rằng sự chinh phục đem lại bi đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa tới thù hận và dường như chỉ muốn chinh phục lại kẻ chinh phục.”
Chiều ngày 29/5 sau phiên xử phúc thẩm, một người dân ở xã Bình Phước, ông Lương Hữu Phước, đã trở lại toà án và nhảy từ lầu hai của toà để tự sát. Hình ảnh ông nằm chết, co quắp ngay trước sân toà nói lên nỗi tuyệt vọng, sự cô đơn cùng cực của người dân VN trước các phán quyết của toà án. Tôi chạnh nhớ đến câu nói của thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh trong phiên phúc thẩm của anh: “một lũ bất nhân đã làm ra phiên toà bất công”.
Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi! Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
Hoa phượng được Nhất Tuấn gọi là hoa học trò vì thuở đó hầu như ngôi trường nào cũng trồng cây phượng trong sân trường. Khi phượng đơm hoa báo hiệu cho mùa Hè cũng là thời điểm chia tay sau niên học. Để lưu niệm, nữ sinh đóng tập Lưu Bút giấy pelure xen kẽ các sắc màu, trông thật nhã, ghi cảm nghĩ cho nhau… Ở lớp Đệ Tứ, không còn học chung nhau vì lên lớp Đệ Tam theo ban A, B, C và lớp Đệ Nhất là thời điểm chia tay vĩnh viễn, tập Lưu Bút dày hơn, chia sẻ, tâm tình… của tuổi học trò. Hầu như nam sinh không có Lưu Bút, chỉ được xía phần, dù có tinh nghịch nhưng phải viết đứng đắn, lịch sự.
Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/Trung/Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và chuân truyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.