Hôm nay,  

Thở Hồn Sử Việt

19/07/202010:34:00(Xem: 4434)


Một thế hệ ngoảnh mặt lại với lịch sử là một thế hệ

không có quá khứ - và cũng không có tương lai (Robert A Heinlein)

Là một học sinh từng say mê môn sử, tôi không thể tưởng tượng được, có một ngày môn học đó bị khai tử!

 

Sử bị giết chết không phải vì cái quyết định của Bộ Giáo Dục năm 2013, khi thông báo rằng môn sử sẽ không được đưa vào môn thi tốt nghiệp PTTH. Nó chết qua hình ảnh các em học sinh trường PTTH Nguyễn Hiền (Sài Gòn) đã nhảy cẫng lên, ôm nhau mừng rỡ khi nhận thông báo. Nó chết bởi sự hăm hở, vui sướng, vô tội của các em khi hùa nhau xé đề cương ôn thi môn sử ném xuống sân trường.

 

Một em sinh viên chia sẻ rằng đa số các học sinh trung học rất chán ghét môn sử. Chỉ nghe tới hai chữ lịch sử thôi là các em đã “rùng mình”. Nghe các chuyện này, tôi thấy đau lòng ghê gớm. Đau lòng vì thấy những gì mình yêu quý bị rẻ rúng, vì niềm tự hào của tôi bị đụng chạm, vì các vị anh hùng của tôi bị xem nhẹ, và sau cùng là ngậm ngùi vì không tìm thấy mình trong các em. 

Nghĩ đến sử, đến những bản đề cương về môn sử rách tan nát, nằm lẫn trong đám lá khô trên sân trường, dưới bàn chân các em bước qua; và rồi từ đây dưới gót chân của thời gian mà hối tiếc! 

Không lẽ nào chúng ta lại cô đơn đến thế, đáng trách đến thế khi không nối kết được quá khứ với tương lai. Nghĩ đến đó tôi lại nhớ đến bố tôi. Ông chỉ là một người lính với cấp bậc bình thường nhưng ông đã gieo vào tôi niềm tự hào sâu xa về lịch sử đất nước mình. 

Làm thế nào mà một cô bé mới lên chín lại say mê lịch sử đến thế! Ở cái tuổi miệng còn ê a những bài học thuộc lòng, nhưng trong cái đầu bé nhỏ ấy vẫn mường tượng đến hình ảnh oai phong của vua Trần trong trận đánh với danh tướng Toa Đô. Trận đánh ấy có thái tử cùng vua cha ra trận. Nhà vua cưỡi ngựa đi trước xông pha tên đạn. 

Chính bố tôi cũng không hề biết rằng cái thước phim hùng tráng do ông truyền đạt cứ còn in mãi trong đầu cô con gái nhỏ của ông. Để rồi sau này, khi lớn lên một chút, tôi đâm mê những bài thơ lịch sử. Có lần tôi say mê kể về sử Việt, về Hai Bà Trưng cho một người bạn ngoại quốc. Tôi đọc nguyên cả bài thơ về giấc mơ của thi sĩ Bắc Phong cho ông nghe. Bắc Phong mơ thấy mình sống ở những năm bốn mươi trước công nguyên, ông là một viên quan quản tượng của Hai Bà. Cứ sáng sáng nhiệm vụ của ông là dắt voi trận đi tắm. Trong một bài thơ khác ông lại viết:

Gặp nhau từ khởi nghĩa Mê Linh

Đứa giữ voi trận đứa tiền binh

Cùng đứng trên bờ ôm nhau khóc

Khi Nhị Trưng sông Hát trầm mình

Thấy tôi như đang sống trong cảm xúc của những ngày sông Hát dậy sóng, lại vừa loay hoay dịch nghĩa những câu thơ. Người bạn chớp mắt cảm động, anh chỉ đáp vỏn vẹn: “tôi hiểu, tôi hiểu, tôi nghe cô”.

Tôi yêu những câu thơ trong “Sử Mai” của Lê Bi:

Máy chém giặc không thể cắt đứt hồn lịch sử

Nên một trăm năm đất nước vẫn không ngừng những kẻ đánh thực dân

Tiếp nối kế thừa như màu xanh cây cỏ…

Ôi! Những câu thơ cho ta đi nhón chân trên thời gian để nhìn ngắm lịch sử đất nước mình. Cho ta ngẩn ngơ vì nét đẹp của nó; tựa như từng nét khắc bài thơ của vị vua trẻ trên vách núi Truyền Đăng. 

Không thể nào nói trẻ con không yêu sử. Hãy hỏi cậu bé Lưu Quang Vũ đi, Vũ sẽ say mê nói cho bạn nghe về hồn phách con sông Hồng và tiếng mài gươm đêm đêm trên cát. Không thể nào nói trẻ con không yêu sử, nếu bạn biết được ước mơ của một cô bé chín tuổi, ngồi nhìn lá rụng trên sân trường mà mơ về lịch sử.

Trước 1975, một số trường tiểu học ở miền nam, cứ vào khoảng 10 giờ sáng, nhà trường buộc các học sinh phải phải xếp hàng đi uống sữa. Sữa là loại sữa bột viện trợ, khuấy với nước sôi và được rót sẵn trong các ly nhựa. Tôi rất sợ phải uống sữa nhưng lại mê nghe chương trình “Phát Thanh Học Đường”. Uống sữa xong, cô giáo cho chúng tôi ngồi lại ở sân trường để nghe chương trình phát thanh. Có hôm là câu chuyện cổ tích “Ăn Khế Trả Vàng”, hôm khác là “Sự Tích Trầu Cau”, hay “Thạch Sanh Lý Thông”, ...  Riêng tôi, con bé mê lịch sử, thì vừa nghe vừa ước mơ giá mà nhà trường cho phát thanh những câu chuyện về lịch sử.

Sử sẽ không bao giờ là một môn học chính trị. Chỉ tại lãnh đạo CS cứ muốn biến môn sử thành môn học chính trị, và một khi sử trở thành môn giáo dục tuyên truyền, họ đã giết chết sử. Cái kết của môn học “dị dạng” này đã cho ra hàng loạt những nhận thức ngô nghê như - Lê Lợi là người anh hùng chống thực dân Pháp, hay “em học trường Nguyễn Du mà Nguyễn Du chính là ông Quang Trung”,…

Trước khi Bộ Giáo dục đi tới cái quyết định loại hẳn môn sử ra khỏi kỳ thi THPT thì sử cũng đã mờ nhạt trong nhận thức của các em rồi! Thậm chí, năm 2005, điểm thi THPT của học sinh về môn sử đã khiến báo chí trong nước đồng loạt ta thán bằng những từ ngữ  “thê thảm”, “bàng hoàng”, ... Có đến gần 14 ngàn thí sinh chỉ đạt được điểm 1 trong môn thi này.

Ở đây, chúng ta không nhằm phân tích hay tìm hướng đi cho môn sử, hãy để những nhà sử học làm công việc của họ, và hãy để Bộ Giáo dục làm cái trách nhiệm nhổ cỏ dại từ những hạt giống họ đã gieo trồng. Bài viết này chúng tôi chỉ muốn nói lên những suy tư, những thiết tha của học sinh một thời về môn sử. 

***


Ngày nay khi đã có tuổi, tôi vẫn nhớ giàn bông giấy trổ hồng trước cửa, nhớ cái ngăn kéo trong chiếc tủ gỗ bạc màu nơi góc nhà. Ngăn kéo có những cuốn sử nhỏ bằng bàn tay do bố tôi mang về. Những cuốn sử nằm lẫn lộn với những con búp bê, với ly, với chén, xoong, chảo bé tí tẹo, … những đồ hàng chơi của một bé gái. 

Sử đã đến với tôi nhẹ nhàng như thế, nó khiến cái trái tim bé nhỏ ấy khóc cười theo những vinh quang, cay đắng mà tiền nhân đã nếm trải. Sử đối với chúng tôi là sự tiếp nối, kế thừa của con dân Việt trong cách nghĩ, cách sống và cách đối diện với những tai ương của đất nước. Nó khiến trái tim ta đập cùng nhịp với những con người đã từng có mặt, từng sống chết cho mảnh đất này hàng nghìn năm trước. Đối với thế hệ học sinh chúng tôi, lịch sử chưa bao giờ ngừng lại, và cái hồn của lịch sử cũng chưa bao giờ mất đi. 

Như một món quà được ấp ủ từ một sân trường tiểu học, xin được gởi định kỳ đến quí bạn đọc loạt Youtube “Thở Hồn Sử Việt” do nhóm “Nguyệt Quỳnh và bạn hữu” thực hiện. Xin chân thành cám ơn nỗ lực vực dậy hồn sử của quý anh chị trong nhóm Viettoon, các em trẻ trong nhóm Đuốc Mồi, … cùng nhiều lời khích lệ của các bậc thức giả. Chúng tôi cũng xin kính lời cám ơn đến các quý vị đã cho phép chúng tôi mượn hình ảnh và những thước phim minh hoạ giúp THSV thêm phần sinh động … và cũng xin được bỏ quá cho chúng tôi nếu chưa liên lạc được để xin phép.

Và đây là “Chiến Thắng Đống Đa phần 1”: https://youtu.be/t0D2xVzjun0

 

Nguyệt Quỳnh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.