Hôm nay,  

Vu Lan Mùa Dịch

22/08/202015:25:00(Xem: 4162)

 


 Mỗi độ tháng bảy âm lịch về, người con phật laị nao nức chuẩn bị cho mùa hiếu hội. Vu Lan báo hiếu đã trở thành một lễ hội quan trọng trong đạo Phật cũng như truyền thống văn hoá của dân tộc.  Một năm có nhiều ngày lễ nhưng với với con Phật có lẽ ngày tết, ngày lễ Phật đản sanh và lễ Vu Lan là quan trọng nhất.

 Không ai biết chắc lễ Vu Lan hình thành và du nhập vào nước ta từ khi nào, nhưng ngày nay đã ăn sâu vào máu thịt không thể thiếu được. Người con Phật vốn lấy hiếu làm đầu, “ Hiếu hạnh vi tiên”. Nho giáo cũng coi trọng chữ hiếu nhưng không trọn vẹn và có phần bất cập, cái hiếu của Nho gia cũng phụng dưỡng cha mẹ nhưng phải nối dõi tông đường, nếu không lập gia đình hoặc không có con là bất hiếu, thậm chí là đaị bất hiếu: “ bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đaị”. Chữ hiếu nhà Phật thì khác, cao cả hơn, trọn vẹn hơn, sâu sắc hơn, “ Hiếu dưỡng phụ mẫu” là nền tảng, là điều tiên quyết của mọi người con Phật, nếu chưa hiếu với cha mẹ thì đừng nói gì đến học Phật, tu Phật.  “ Hiếu dưỡng phụ mẫu” là điều kiện tiên quyết trong tam phước mà kinh Vô Lượng Thọ đã nói. “Hiếu dưỡng phụ mẫu” không chỉ là chăm lo thân xác, quần áo, cơm nước, thuốc men… và còn phải chú trọng đến tinh thần nữa, lo cho cha mẹ an lạc, hướng dẫn cha mẹ sao cho tinh thần thoải mái, vui vẻ… Nếu cha mẹ đã tin tam bảo, hộ trì tam bảo, nương tựa tam bảo thì quá tốt; còn nếu như cha mẹ chưa có tín tâm ở tam bảo thì tạo mọi điều kiện để cha mẹ tiếp xúc với tam bảo, tạo niềm tin cho cha mẹ hướng về tam bảo, giúp cha mẹ trồng nhân lành ở tam bảo chẳng hạn như: đưa cha mẹ đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, làm công quả, hành hương Phật tích, bố thí…Có như thế mới là trọn hiếu. Cha mẹ cũng như bao người khác, ngoài phần thân còn có tâm thức, cái thân thì chỉ trong vòng trăm năm nhưng thần thức thì vô cùng quan trọng, không chỉ đời này mà nhiều đời khác nữa, việc hướng dẫn tinh thần cho cha mẹ là cách báo hiếu sâu sắc nhất, vì đó là cách giúp cha mẹ tạo được tư lương thiện lành để một khi hết số thì có thể tái sanh vào cõi an lành, có một hậu thế tốt đẹp hơn. 

 Chữ hiếu trong nhà phật còn mở rộng ra, không chỉ “ Hiếu dưỡng phụ mẫu” một đời này mà còn hiếu với ông bà tổ tiên đã quá vãng. Bởi vậy lễ Vu Lan ngoài việc báo hiếu cha mẹ hiện tiền mà còn chú nguyện cho cửu huyền thất tổ được siêu sanh tịnh độ.
 

 Lễ Vu Lan xuất phát từ điển tích ngài Mục Liên cứu mẹ thoát khỏi u đồ, sau này có thêm thoắt những yếu tố dân gian bản địa như: chuyện bà Thanh Đề với bánh bao nhân thịt chó… nhưng cốt lõi vẫn là chuyện  báo hiếu của người con Phật, báo hiếu mẹ cha, tưởng nhớ tổ tiên. Chữ hiếu trong nhà Phật lớn lắm, không chỉ hiếu với cha mẹ mình, không chỉ biết ơn với cha mẹ mình mà còn mở rộng ra thành tứ trọng ân: Ơn Phật, đã mở đường sáng, đường giải thoát, đường vượt sanh tử cho chúng sanh. Ơn thầy tổ, truyền trao, chỉ dạy, sách tấn. Ơn quốc độ, đã cưu mang, đã cho mình một nơi sống an cư lập nghiệp. Ơn đàn na tín thí, tất cả mọi người và mọi loài cùng cộng sinh, tác động qua laị lẫn nhau (điều này cũng là lý tương tức, cái này sinh cái kia sinh, cái này diệt cái kia diệt). Mình tồn tại được là nhờ cộng sinh chung với nhau và với muôn loài. Cái ơn mình mang lớn lắm, có ai đó đã viết về công ơn cha mẹ:

 Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ.

 Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha 

 Cha mẹ được ví như hai vị Phật đầu tiêncủa mỗi con người, nhờ có cha sanh mẹ dưỡng mà ta mới có mặt trên cuộc đời này, nhờ công lao cha mẹ mà ta ăn học nên người, trước khi là một Phật tử thì mình đã là một người con. Bởi vậy công lao cha mẹ to lớn lắm, nói hết lời cũng không tả được. Cha mẹ là hai vị Phật đầu tiên của mỗi con người, có biết ơn cha mẹ, có hiếu với cha mẹ thì mới có thể nói đến biết ơn kẻ khác. Văn học Phật giáo có câu chuyện rằng: “ Có anh thanh niên trẻ muốn học Phật, dốc lòng đi tìm Phật. Anh ta chẳng ngại núi non hiểm trở, rừng thiêng nước độc, chẳng ngại đường xa cách trở…đi khắp nơi cầu kiến cao nhân, tham vấn đạo hữu nhưgn vẫn chẳng thõa mãn, vẫn không thấy Phật. Một ngày kia anh ta gặp một vị tăng, ông tăng bảo anh ta quay về nhà, người đầu tiên mà anh gặp ấy chính là Phật! Anh vâng lời quay về, người mẹ già vui mừng cập rập ra mở cửa, mắt mũi kèm nhèm, dép chiếc trái chiếc phải…Anh ta chợt ngộ ra và ôm chầm lấy mẹ: Mẹ chính là vị Phật!” 

 Văn học dân gian cũng có cả kho viết về mẹ cha, có lẽ bốn câu lục bát dưới đây là tiêu biểu nhất, đầy đủ nhất, hay nhất… Hầu như ai cũng biết, ai cũng thuộc ( chỉ e lớp trẻ thời 4.0, thời 5G này hình như không có mấy em biết ) 

 Công cha như núi Thái Sơn

 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

 Một lòng thờ mẹ kính cha

 Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

 Hoặc như:

 Con người có tổ có tông

 Như cây có cội như sông có nguồn

 Cũng có người bảo:” Sao các tu sĩ bỏ cha mẹ mà đi tu? vậy có tròn hiếu không?”. Xin thưa rằng: Đó là cái nhìn cạn cợt, phiến diện, thiếu hiểu biết, thấy gần mà chẳng thấy xa, chấp  nhỏ mà bỏ lớn… Những vị tu sĩ ấy chính là đaị hiếu. Các vị tu sĩ không chỉ lo cha mẹ mình mà còn lo cho cha mẹ khắp thiên hạ. Các vị tu sĩ ấy chính là phước điền cho mọi người, đi tu không gần gũi cha mẹ nhưng ngày đêm đang tạo phước đức cho cha mẹ, lo cho tương lai hậu sanh của cha mẹ , hồi hướng công đức cho khắp pháp giới chúng sanh. Đi tu vừa sử lỗi tự tân, tự thăng tiến vừa chăm lo cho thần thức của cha mẹ đó là cách báo hiếu tích cực nhất, mà không phải ai cũng làm được. 

 Mỗi mùa Vu Lan về, người Phật tử về chùa tụng kinh, niệm Phật, cầu siêu, cài hoa báo hiếu cha mẹ, cầu cho ông bà tổ tiên quá vãng, cầu cho khắp pháp giới chúng sanh. Mỗi nụ hoa cài trên áo, nhắc nhở người con Phật về công ơn cha mẹ, về trách nhiệm người con Phật, giờ đây đã trở thành một tập tục đẹp và nhiều ý nghĩa. tiếc rằng năm nay dịch bệnh tràn lan, mọi nguời không thể về chùa được ( có một vài chùa tổ chức lễ Vu Lan nhưng rất giới hạn số lượng người tham gia, vì tuân thủ quy định khoảng cách an toàn của nhà cầm quyền. Phật pháp bất ly thế gian pháp là vậy!). Lễ Vu Lan năm nay sẽ tổ chức trực tuyến, có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại ( sau này thì không biết có còn lập laị?). Lễ Vu Lan, lễ báo hiếu tổ chức trực tuyến trên mạng Internet, người Phật tử không thể vân tập về chùa như những năm trước thì tham gia trực tuyến vậy ( tùy duyên mà ). Người Phật tử ở nhà vẫn cứ tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền như công khoá thường lệ, tham gia đóng góp từ thiện, thực hiện phóng sanh bằng cách ăn chay…  sau đó cũng hồi hướng công đức cho cha mẹ, cho ông bà tổ tiên, cho khắp pháp giới chúng sanh. Tất nhiên cũng có người lo lắng, có chút xíu công đức mà hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh thì nhằm nhò gì? Xin thưa rằng: Một đóm sáng loé lên trong đêm tối, một người hướng về hưởng ánh sáng thì đóm sáng ấy chẳng sáng hơn, cũng đóm sáng ấy mà  muôn người hướng về thì đóm sáng ấy cũng chẳng suy đi. 



 Vu Lan mùa dịch, mọi người ở nhà có thể tận dụng thời gian ấy mà công phu, đọc sách, đọc kinh điển… cũng là một cách trau dồi trí tuệ. Người học Phật phải biết rằng: Phước không thể cứu, chỉ có huệ mới cứu được mình, phước với huệ phải có cả hai mơi vẹn toàn. Chỉ có phước mà không có huệ thì như voi được đeo anh lạc, tuy no đủ, trang sức đẹp nhưng ngu si. Còn nếu chỉ có huệ mà không có phước, thì chứng đến A La Hán mà ngày ngày ôm bát khất thực về không, chẳng có tí thức ăn nào. Bởi thế mà đức Phật được tôn xưng là bậc “ Lưỡng túc tôn”, hoặc “ Phước trí nhị nghiêm”. 

 Lễ Vu Lan gắn liền với tích Mục Kiền Liên, ai ai cũng biết, kinh sách đã viết nhiều, thiết nghĩ không cần lập laị. Ở đây xin nhắc một khiá cạnh khác: Ngài Mục Kiền Liên vốn được tôn xưng là thần thông đệ nhất, nhờ có thần thông mà biết mẹ đọa u đồ. Thần lực của ngài không cứu được nên phải cầu đến thần lực của mười phương tăng. Thần lực mười phương tăng làm cho mẹ ngài chuyển đổi tâm niệm, nhờ chuyển đổi tâm niệm mà lập tức thoát khỏi u đồ. Cứu độ là giúp cho bà chuyển đổi tâm niệm chứ không phải dùng thần lực nhấc bổng bà ra khỏi u đồ. Khi tâm niệm san tham, bỏn sẻn… thì thức ăn đưa lên miệng lập tức hoá lửa ( lửa sân hận, tham lam, giận dữ…). Khi tâm niệm  chuyển hoá thì cảnh u đồ lập tức thành thanh lương. Điểm này cũng giống như câu kệ:” Hoả diệm hoá hồng liên” vậy! 

 Một tâm mười pháp giới, tâm này là Phật, tâm này làm Phật, Một niệm tâm chuyển thì mọi sự chuyển theo. Y báo tùy thuộc vào chánh báo, chánh báo chuyển thì y báo chuyển theo. Địa ngục, thiên đàng cũng một niệm tâm mà ra. Bà mẹ của ngài Mục Kiền Liên khi tâm niệm còn mê thì ở u đồ, khi tâm niệm tỉnh giác thì sanh thiên. Mùa Vu Lan đến, mọi Phật tử, mọi người cùng gởi một tâm niệm thiện lành vào trong hư không, biết đâu chuyển đổi tâm niệm của một chúng sanh nào đó trong u đồ, biết đâu trong số ấy có cha mẹ, ông bà, thân hữu nhiều đời nhiều kiếp của mình. 

 Phật giáo sử có một minh chứng hùng hồn về sự chuyển biến thay đổi lớn của y báo khi chánh báo chuyển. Vua Asoka là một bạo chúa, hung hăng hiếu chiến, gây ra bao cảnh núi xương sông máu, khói lửa binh đao…nhưng từ khi một niệm tâm thay đổi, ông đã trở thành một vị vua hiền, một hộ pháp vĩ đaị, ông đem laị thái bình an lạc cho dân, hoằng dương Phật pháp, chính các con ông cũng xuất gia và mang Phật giáo đến Tích lan và sau đó lan truyền qua những quốc gia nam Á khác. 

 Tâm chuyển tướng chuyển, tâm tưởng sự thành… lý là thế nhưng thật tế thì ngàn muôn không được một, vô cùng khó. Con người bị cái nhìn lệch lạc ( thiên kiến, biên kiến, kiến thủ…), bị mê mờ vì ngũ dục và  chấp cho là  thật ( tài, sắc, danh, thực, thùy) nên rất khó chuyển. Trong kinh sách Phật có truyện anh chàng Vô Não, y giết người lấy xương ngón tay mà xâu chuỗi, khi gặp Phật thì tỉnh ngộ, hồi tâm chuyển ý, buông đao, theo Phật tu học mà chứng thành quả, bởi thế nhà thiền mới nói “Đồ đao lập địa”. 

 Lịch sử nước ta cũng có việc tương tự, đời Lê mạt, vua Vĩnh Trị hạ chỉ bãi Phật biếm tăng, trục xuất tu sĩ ra khỏi Thăng Long và đày đi xa. Thiền sư Tông Diễn đã can đảm đứng ra can gián và thuyết phục được vua, sau đó vua rút laị chỉ và còn ăn năn sám hối. Vua cho vời những thợ tài hoa nhất tạc một pho tượng Phật ngồi trên lưng vua, vua nguyện lấy thân làm toà. Pho tượng vua quỳ phủ phục dưới đầt làm toà cho Phật ngồi quả là độc đáo nhất của nước ta, có thể nói là độc nhất vô nhị không chỉ của Việt Nam mà có thể cả thế giới ( vì chưa thấy Phật giáo sử nước nào có chuyện vua lấy thân làm toà cho Phật ngồi như thế cả). Ngày nay pho tượng “ Lấy thân làm toà” còn thờ ở chùa Hoè Nhai. 

 Trong đời thường, thỉnh thoảng chúng ta cũng nghe đây đó có những đaị ca xã hội đen, những tay anh chị giang hồ có số má, không việc ác nào không dám làm, đâm thuê chém mướn, dắt gái bảo kê, đả thương truy sát, vào tù ra khám… ấy vậy mà bỗng nhiên hoàn lương hướng thiện, giúp người giúp đời, sống ẩn nhẫn thầm lặng, cam chịu cả đàm tiếu lẫn oan trái… Ấy cũng là từ một niệm tâm thay đổi mà ra, niệm trước là ác là sai quấy, niệm sau là thiện lành. Một niệm tâm chuyển thì con người chuyển, hoàn cảnh chuyển! 

 Mùa Vu Lan laị về, tiếc rằng năm nay dịch bệnh hoành hành, chùa chiền  không tổ chức lễ được. Phật tử cũng hạn chế về chùa, chỉ còn cách lên mạng trực tuyến mà thôi, âu cũng tùy duyên. Cái quan trọng là tự thân mỗi Phật tử phải thật sự biết ơn cha mẹ, thật sự báo hiếu cha mẹ chứ không phải làm màu, hay chỉ làm mỗi ngày lễ Vu Lan. Mỗi người tự thân tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, hành thiện, phóng sanh… và hồi hướng công đức cho cha mẹ và ông bà quá vãng được siêu thoát, cha mẹ hiện tiền thân an tâm lạc. Cầu cho khắp pháp giới chúng sanh cùng an lạc, cầu cho dịch bệnh sớm qua đi. 

 Mùa Vu Lan đến

 Dịch bệnh hoành hành khắp chốn

 Hiếu hội năm nay lỗi hẹn

 Mình ở nhà nghĩ nhớ tổ tiên

 Suy tưởng công lao khó nhọc của mẹ cha

 Mùa Vu Lan đến

 Dâng lời khấn nguyện

 Cha mẹ hiện tiền thân an tâm lạc

 Ông bà quá vãng đặng siêu sanh

 Ngày và đêm an lành 

 Người và muôn loài sống trong tình thương tỉnh thức 

 Mùa Vu Lan đến

 Ánh đạo vàng soi sáng khắp thế gian này

 Trời phương đông mây trắng bay

 Trời phương tây, người con Phật hướng về nguồn cội

 Hiếu hạnh muôn đời không đổi 

 Giải thoát là mục tiêu tối thượng 

 An lạc giữa đời thường

 Lời sư tử hống vang động khắp mười phương 


TIỂU LỤC THẦN PHONG 

Ất Lăng thành, 08/2020 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhưng vấn đề không đơn giản như họ nghĩ để buộc người miền Nam phải làm theo vì không còn lựa chọn nào khác. Trong 45 năm qua, ai cũng biết nhà nước CSVN đã đối xử kỳ thị và bất xứng với nhân dân miền Nam trên nhiều lĩnh vực. Từ công ăn việc làm đến bảo vệ sức khỏe, di trú và giáo dục, lý lịch cá nhân của người miền Nam đã bị “phanh thây xẻ thịt” đến 3 đời (Ông bà, cha mẹ, anh em) để moi xét, hạch hỏi và làm tiền.
Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway).
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.