Hôm nay,  

Tiếng Mẹ Cười

27/08/202009:17:00(Xem: 5576)

Tran Kiem DoanHình minh họa

 

 

Vu Lan về…

Vu Lan cũng như Giáng Sinh, không còn là ngày lễ riêng tôn giáo.  Đó là những dấu son thời gian của nhân văn ghi đậm nét cảm xúc của con người. Nếu Giáng Sinh là ngày lễ của Ân Tình thì Vu Lan là ngày lễ Nhớ Mẹ.

Cũng như mọi năm, Vu Lan là ngày mới hồi sinh của một chuỗi dài dấu ấn tinh thần đã cũ. Các bậc tu hành Phật giáo xuống lại cuộc đời sau mùa An Cư Kiết Hạ. Nhưng năm nay Mùa An Cư Kiết Hạ truyền thống của Phật giáo trùng hợp ngẫu nhiên mà đồng thời vời mùa đại dịch Cô Vy phải cách ly. Có điều khác nhau giữa dòng đời trôi chảy triền miên và biến cố nhất thời là các nhà tu Phật giáo đã “ra Hạ” mà cả nhân loại thì vẫn còn xao xác chuyện cách ly!

Hơn trăm ngày cách ly vì đại dịch Covid-19, bạn đã suy gẫm điều gì hay nhất. Xin đừng nghi ngại. Khái niệm “hay” của con chim sơn ca là tiếng hót cao ngất trời xanh nhưng với con dế mèn là tiếng kêu tỉ tê âm thầm trong bóng tối. Ý nghĩ riêng về cái hay mà tôi đã quán tưởng trong những ngày cách ly là tiếng cười của Mẹ.

Trong thiên nhiên xa vời và nếp sống hiện thực thì tiếng cười là sản phẩm diệu kỳ và quý hiếm nhất của đất trời. Tiếng cười cũng như khí trời và hơi thở, lúc nào và nơi nào chẳng có mà lại liệt vào hàng quý hiếm?! Gần triệu người đã ra đi vì bị Coronavirus ngăn hơi thở và bảy tỷ người đang ưu tư nếu một mai mình… khó thở rồi đi vào hết thở! Nụ cười thì nghiêm trọng hơn vì khi con người hết nụ cười là chết lâm sàng ngay trong cuộc sống.

Mọi sinh vật có sống, biết ăn, biết ngủ mà không biết cười. Ngựa hí có thể là ngựa cười mà biết đâu là đang khóc. Gà gáy, chó sủa, mèo kêu, bò rống… là đang cười chăng? Không đâu. Chỉ có con người bình thường, khỏe mạnh và hiện sinh tự tại mới biết cười.

Thằng Vui Điên ở Huế mấy mươi năm chạy rông, miệng lúc nào cũng ngỡ như cười nhưng chẳng ai biết thật ra là nó đang la khóc hay kêu cứu. Cái mất đầu tiên và lớn nhất của đời người là nụ cười. Chỉ có khi thân an không bệnh tật, tâm lạc không buồn hay vui quá độ người ta mới thật có nụ cười trọn vẹn chân thật, nụ cười tỏa chiếu lòng vui. Nhân gian có muôn vàn cách cười, vô số cảnh cười nhưng chỉ có Tiếng Mẹ Cười là nụ cười Trung Đạo nhất. Tiếng Mẹ Cười không phát xuất từ bờ nầy hay mé nọ; không cần phải được hay thua mà tất cả hội tụ vào lòng thương con không bờ bến. Mẹ cười khi đau để vỗ về, khi buồn để an ủi, khi no để an lòng, khi đói để chịu đựng, khi thành công để chia sẻ, khi thất bại để không bỏ cuộc. Tiếng Mẹ Cười cho con, vì con tự nhiên mà thiêng liêng như hồn Đại Ngã. Cho nên, nghĩ về Mẹ đầu tiên là Tiếng Mẹ Cười.

            Gần 50 năm, tôi chưa bao giờ tách dòng suy nghĩ của mình về Mẹ để nhận diện Tiếng Mẹ Cười. Lớn lên, trưởng thành và tương tác giữa quê hương, làng nước, xóm nghèo qua những cảnh chiến tranh, hòa bình và ly tán, tôi chưa hề nghĩ đến Tiếng Cười của Mẹ vì Mẹ là hiện thân của tiếng cười bồng ẵm đời tôi tự nhiên như hơi thở. Cho đến khi tôi xa Mẹ lúc người 80 và biền biệt 10 năm trở về thăm Mẹ ở tuổi 90 vào năm 1992, tôi mới chững lại khi nhảy chân sáo trở về làng với Mẹ. Mẹ đó. Tóc mẹ bạc đi nhiều với khuôn mặt an tịnh không biểu tỏ vui buồn và đôi mắt ươn ướt tuổi già không khác nhiều lắm như ngày tôi ra đi. Khác chăng là trí nhớ Mẹ như lẫn trong sương mù. Mẹ hỏi tôi và các cháu thản nhiên như người trong nhà không có 10 năm xa cách.  Có một khung trời vắng bóng nơi Mẹ mà tôi chưa tìm ra: Nụ cười.  “Phải rồi, tiếng cười của Mạ mô rồi”. Cái vắng lặng đau nhói hiện ra nhỏ và mơ hồ như sợi tóc lớn dần. Tôi hoảng sợ. Mẹ ngồi đó nhìn tôi đăm đăm. Nhưng cái nhìn nội chiếu của chặng đời quá khứ. Trên khuôn mặt Mẹ đã hoàn toàn vắng bặt nụ cười. Mạ ơi! Con đã về với Mạ nhưng con đã vĩnh viễn xa khuất Tiếng Mạ Cười… Nửa năm sau ngày về thăm Mẹ, lúc nửa đêm về sáng ở Cali, tôi choàng thức giấc nhận tin điện thoại từ anh Thiện báo tin Mẹ tôi đã qua đời.

            Câu mở đầu trong tập sách Về Huế xuất bản sau ngày tôi về thăm Mẹ là: “ Mạ ơi! Nếu có kiếp lai sinh, con chỉ xin được làm con của Mạ.”

            Quê nghèo, chiến tranh, phân ly đã tạo ra những khúc quanh tâm lý và tình cảm khiến đời sống xã hội Việt Nam nhuộm tím trong cảnh hợp tan và thương tiếc. Người Mẹ Việt Nam – nhất là những bà Mẹ Quê – trở thành biểu tượng của hy sinh và tình thương con không bờ bến. Và đối với những người con Việt Nam nhân hậu thì tình thương Mẹ cũng sẽ không bao giờ đổi thay theo hoàn cảnh hay phai nhạt với thời gian.

            Trong nghệ thuật thi ca, âm nhạc, hội họa, sân khấu Việt Nam, cảm xúc về Mẹ cũng trùng trùng khơi nguồn trong diễn xuất và sáng tạo. Trong dòng cảm xúc riêng mình thì Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười của Trần Trung Đạo, là bài thơ tiếng Việt mà riêng tôi cảm nhận là hay nhất về Mẹ trong vườn thơ Hải ngoại:

 

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

 

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

 

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

 

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

 

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

 

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

 

                           Trần Trung Đạo

 

Tiếng Mẹ Cười là biểu tượng của tình yêu, che chở, gieo neo, hy sinh vô bờ bến nghìn thu vĩnh cửu đối với con. Biểu tượng tình cảm cao vời và sâu thẳm của Mẹ dành cho con mà sau mười năm xa Mẹ khi trở về tôi không còn hạnh phúc có được. Tiếng Mẹ Cười ngỡ như tầm thường vì ở đâu, ngày nào và ai ai cũng có như ánh nắng, như hơi thở. Chỉ đến khi mặt trời đã lặn; thở ra mà không còn thở vào thì đã trễ tràng cho ai về muộn hay mất dấu đời đời giữa dòng sinh diệt.

Thương Mẹ, chăm sóc Mẹ, có hiếu với Mẹ để thấy được Tiếng Mẹ Cười là tìm được một bầu trời tươi mát yêu thương và từ đó, tìm được nguồn suối yêu thương mà nương tựa cho mình.

Mùa Vu Lan đang về. Năm nay có thể không có bông hồng đỏ, bông hồng trắng, bông hồng vàng (tu sĩ) gắn lên áo để nhớ Mẹ. Ai còn Mẹ, xa Mẹ, hay mồ côi Mẹ đều có thể nhắm mắt hình dung hình tượng giữa cuộc đời hay trong tâm tưởng đẹp hơn cả đóa hoa hồng: Tiếng Mẹ Cười.

 

Sacramento, Cali Mùa Vu Lan 2020

Trần Kiêm Đoàn

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.