Hôm nay,  

Công Hay Tội?

01/09/202018:36:00(Xem: 5236)

Khi tìm hiểu công hay tội của một nhân vật lịch sử, người ta thường xét hoạt động hay công việc của người đó đóng góp như thế nào cho đất nước, dân tộc.  Vậy thử áp dụng nguyên tắc nầy để đánh giá Hồ Chí Minh là người có công hay có tội trước lịch  sử Việt Nam?


1.- DU NHẬP CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN


Hồ Chí Minh (HCM) là đảng viên đảng Cộng Sản Pháp năm 1920, đến Moscow và vào học Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông (Communist University of the Toilers of the East) năm 1923.  Cuối năm 1924, Liên Xô gởi HCM qua hoạt động ở Quảng Châu (Trung Hoa).  Năm 1930, vâng lệnh Liên Xô, HCM thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) tại Hồng Kông.  Sau vài tháng, do lệnh của Liên Xô, đảng CSVN đểi tên thành đảng Cộng Sản Đông Dương. Năm 1945, HCM cùng đảng CS cướp chính quyền và thành lập nhà nước CS đầu tiên ở Á Châu.  


Khi mới du nhập vào Việt Nam, chủ nghĩa CS được tuyên truyền là chủ nghĩa “TAM VÔ”, gồm có “vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo”.  Khi nói đến “tam vô” thì có vẻ mơ hồ.  Có lẽ cần nhìn vào hoạt động của đảng CS thì sẽ rõ ràng hơn tính năng của chủ nghĩa “tam vô” của CS.  


Do chủ trương vô gia đình, trong Cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở Bắc Việt Nam đảng CS khuyến khích con tố cha, vợ chồng tố nhau, anh chị em tố nhau.  Riêng cuộc CCRĐ giai doạn 5 vào 1955-1956, CS giết hại hơn 170,000 người. (Đặng Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II: 1955-1975, Hà Nội, Nxb. Khoa Học Xã Hội, tr. 85), do đấu tố kiểu “vô gia đình”.


Chính HCM cũng hành xử một cách “vô gia đình”.  Trong di chúc trước khi chết, HCM viết : “…tôi để sẵn mấy lời nầy, phòng khi tôi đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin…” (Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Trung Ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, có xem lại và bổ sung, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1975, tr. 171.)  Sau khi chết, Hồ Chí Minh chỉ muốn đi gặp mấy ông tổ CS người Đức, người Nga, mà không nghĩ đến tổ tiên, cha mẹ, anh chị của mình bởi vỉ người CS “tam vô”.


Tổ quốc Việt Nam đã trải hơn hai ngàn năm thăng trầm, qua bao lần bị ngoại bang xâm lược, mà vẫn tồn tại, nên không thể có chuyện người Việt vô tổ quốc để tiến lên thế giới đại đồng.  Chỉ có tên CS Tố Hữu mới ca tụng Trung Cộng theo kiểu “vô tổ quốc”: “Bên ni biên giới là mình,/ Bên kia biên giới cũng tình anh em.” (Tố Hữu, “Đường sang nước bạn”.) (Nguồn: Thơ Tố Hữu, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2003.) 


Người Việt tin tưởng vào sự hiện hữu của linh hồn ngưới quá cố, từ thời lập quốc đã có tục thờ cúng ông bà.  Người Việt cho đến thế kỷ 20 theo bốn tôn giáo chính là Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo và Thiên Chú giáo, nên không chấp nhận vô thần.  Các tôn giáo đều có nhiều tín đồ.  Nhằm tranh giành quần chúng của các tôn giáo, nên CS chủ trương vô tôn giáo, tấn công, tàn phá chùa, nhà thờ, di tích lịch sử và giết hại, bắt giam, ngược đãi tu sĩ, tín đồ tôn giáo.   


Như thế, chủ nghĩa CS do HCM du nhâp vào Việt Nam hoàn toàn đối nghịch với văn hóa dân tộc.  Chẳng những thế, chủ nghĩa CS cũng đi ngược lại với các nền văn hóa trên thế giới, nên Quốc hội của Hội đồng Âu Châu (Parliamentary Assembly of Council of Europe) trong phiên họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg (Pháp) đã đưa ra nghị quyết số 1481, lên án chủ nghĩa CS là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị CS đã vi phạm nhân quyền tập thể.  Điều 2 của nghị quyết 1481 viết: “Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể.


2.-  CẦU VIỆN TRUNG CỘNG


Người Việt vốn có tinh thần độc lập tự chủ, chống ngoại xâm.  Từ khi Pháp xâm lăng Việt Nam vào giữa thế kỷ 19, người Việt liên tục nổi lên chống Pháp, mà không cầu viện ngoại bang.  Trong khi đó, HCM và đảng CSVN cầu viện Trung Cộng để chống Pháp.  Người Pháp sinh sống ở miền ôn đới, không hợp phong thổ Việt, không ở lại Việt Nam vĩnh viễn, trước sau gì người Pháp cũng ra đi.  Sau thế chiến thứ hai, các nước trên thế giới dần dần giải thực một cách ôn hòa, chứ không dẫm máu, đau thương như Việt Nam.  


Trái lại, Trung Cộng rất hiếu chiến, chủ trương trường kỳ xâm lăng, và bành trướng lâu dài.  Khi HCM cầu viện Trung Cộng năm 1950, Trung Cộng giúp đỡ một cách hào phóng CSVN, không phải vô vị lợi mà theo lời Lưu Thiếu Kỳ thì Trung Cộng sẽ đòi lại sau khi CSVN thành công. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Noth Carolina Press, 2000, tr. 19.)  Như thế có nghĩa là không có việc Trung Cộng cho không, biếu không; không có việc Trung Cộng viện trợ không hoàn lại, mà Trung Cộng giương bẫy nợ và đưa HCM cùng CSVN vào tròng của Trung Cộng ngay từ thời chiến tranh 1946-1954. Đó là chưa kể Trung Cộng ngầm xúi CSVN đánh nhau với Pháp để Trung Cộng hưởng lợi.


Hồ Chí Minh cầu viện Trung Cộng để chống Pháp để rồi CS quốc tế, Liên Xô và Trung Cộng thế chỗ của Pháp khống chế Việt Nam, thi như người xưa đã nói: “đuổi cọp cửa trước, rước sói cửa sau, để tai họa lại cho hậu thế.” (Cổ văn: “Ninh thụ vô công chi danh, bất khả đồ hữu công nhi tiền môn cự hổ, hậu môn tiến lang, dĩ di họa ư hậu thế”.  Tạm dịch nghĩa: “Thà không có công danh, không thể mưu đồ lập công mà đuổi hổ cửa trước, rước sói cửa sau, để tai họa lại cho hậu thế.”)  Còn Phan Châu Trinh thì đã viết một cách đơn giản cho HCM: ““quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người cỡi mà thôi.” (Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, Amirillo, TX: Nxb. Chuông Rè, 2000, tt. 39-40.)


3.-  GIẢI PHÓNG DÂN TỘC?


Đảng Cộng Sản, những tác giả CS và những người thiên cộng thường ca tụng HCM là kẻ đã có công “gỉải phóng dân tộc”.  Theo nghĩa tầm nguyên, “giải” là mở ra, “phóng” là thả ra, buông ra, không ràng buộc.  Như thế, giải phóng là đưa một đối tượng từ tình trạng bị giam hãm kềm kẹp đến trình trạng được thoát ly, tự do, tức từ chỗ xấu đến chỗ tốt hơn.  Ngang đây, có hai vấn đề cần đặt ra: 1) HCM và đảng CS giải phóng ai? 2) Đối tượng mà HCM và đảng CS nói rằng được CS giải phóng có thật sự được thoát gông cùm nô lệ hay ngược lại là bị đưa vào tròng nô lệ mới?


Khi cướp được chính quyền và ra mắt chính phủ tại Hà Nội ngày 2-9-1945, HCM đưa ra các lời thề quyết liệt chống Pháp nếu Pháp trở lại Việt Nam, nhưng khi Pháp tái chiếm Nam Kỳ, tiến ra Trung Kỳ, rồi đe dọa Bắc Kỳ, thì HCM sợ bị Pháp lật đổ, nên bỏ qua lời thề ng ày 2-9, ký với Pháp hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, thừa nhận việc Pháp đem quân vào Việt Nam.  Để chắc chắn hơn, HCM qua Pháp ký Tam ước (Modus Vivendi) ngày 14-9-1946 tại Paris, để cho Pháp tái lập các hoạt động của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Như thế có nghĩa là HCM không chống Pháp, mà thỏa hiệp với Pháp để duy trì quyền lực.


Quân Pháp đến Hà Nội càng ngày càng đông, đòi kiểm soát an ninh Hà Nội.  Nếu để cho Pháp kiểm soát an ninh Hà Nội, thì sinh mạng HCM và lãnh đạo đảng CS nằm trong tay Pháp, nên HCM triệu tập hội nghị trung ương đảng CS tại Vạn Phúc (Hà Đông) trong hai ngày 18 và 19-12-1946, quyết định bất ngờ tấn công Pháp. (Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504) để có lý do chính đáng trốn khỏi Hà Nội.  


Cướp được chính quyền thì đảng CS chủ trương độc tôn quyền lực.  Khi Pháp trở lại Việt Nam thì CS thỏa hiệp với Pháp để giữ vững quyền lực, không chống Pháp.  Khi bị Pháp áp lực nặng nề và có thể bị Pháp tiêu diệt, đảng CS mới quyết định tuyên chiến với Pháp và chuyển gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc, vì sự sống còn của HCM và đảng CS, chứ không phải để giải phóng dân tộc.    


Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai Việt Nam ở sông Bến Hải, ngang vĩ tuyến 17.  Bắc Việt Nam (BVN) theo chế độ CS.  Nam Việt Nam (NVN) theo chế độ Cộng Hòa.  Trước khi ký hiệp định Genève, tại hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ ngày 3 đến 5-7-1954, Châu Ân Lai đã khuyên HCM chôn giấu võ khí và lưu cán bộ, quân đội ở lại NVN để tiếp tục cuộc chiến.  Hồ Chí Minh liền thi hành kế hoạch nầy, nghĩa là HCM và CSVN chủ ý sẽ tiếp tục tấn công NVN, còn việc HCM va BVN đưa ra hai khầu hiệu “Giải phóng miền Nam” và “Chống Mỹ cứu nước” chỉ là hai chiệu bài để my dân và phỉnh gạt dư luận thế giới mà thôi.


Năm 1954 và năm 1975, thành công xong, Hồ Chí Minh và CS đã áp đặt miền BVN (1954) và sau đó NVN (1975) dưới chế độ CS, độc tài đảng trị, toàn trị, theo chính sách kinh tế chỉ huy, làm cho dân chúng Việt Nam càng ngày càng cùng khổ.  Do đó, không thể nói HCM và đảng CS đã giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, mà phải nói là HCM và đảng CS đã nô lệ hóa đất nước trong gông cùm cộng sản.


4.-  CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC?


Để có lý do gây chiến, xâm lăng Nam Việt Nam sau năm 1954, HCM và CSVN cầu viện các nước CS để thực hiện chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”.  Sau thế chiến thứ hai, Liên Xô chiếm các nước Đông Âu, Trung Cộng chiếm Tân Cương, Tây Tạng.  Ngược lại, tuy chiến thắng Đức, Nhật Bản, Nam Hàn, nhưng Hoa Kỳ không chiếm các nước nầy, mà trao trả độc lập và giúp các nước nầy phục hưng kinh tế nhanh chóng, tiến bộ vượt bậc, nghĩa là Hoa Kỳ chủ trương giúp các nước khác trên thế giới cùng phát triển với Hoa Kỳ.  Chính bản thân diện tích nước Hoa Kỳ quá rộng, dân số chưa đủ để canh tác cho hết đất của Hoa Kỳ.  Hàng năm, Hoa Kỳ còn cho nhiều người ngoại quốc nhập cư, thì Hoa Kỳ cần gì phải xâm lăng nước khác như Trung Cộng bị nạn nhân mãn mãn tính.


Hồ Chí Minh và các lãnh tụ đảng Lao Động dư biết những điều trên đầy, nhưng vì vâng lệnh Châu Ân Lai tại hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ 3 đến 5-7-1954, nên HCM đưa ra chủ trương “chống Mỹ cứu nước” ngay trước khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954.  


Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam vì chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ, giúp đỡ Nam Việt Nam tái thiết sau năm 1954, , nhằm chống lại sự bành trướng của CS chứHoa Kỳ không có tham vọng đất đai.  Nhờ thế, Nam Việt Nam phồn thịnh nhanh chóng hơn các nước Đông Nam Á.    Khi Hoa Kỳ thay đổi chiến lược, bắt tay với Trung Cộng, Hoa Kỳ nhanh chóng rút hết quân về nước.   


Còn HCM cầu viện Trung Cộng, rước 320,000 quân Tàu vào trấn giữ miền bắc sông Hồng, thì ngày nay Việt Nam phải gánh nỗi khổ Trung Cộng, mất đất (Hoàng Sa, Nam Quan), mất biển (10,000 Km2 Vịnh Bắc Việt), và Biển Đông bị Trung Cộng đe dọa triền miên.  Đó là kết quả kế hoạch “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”. (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422ct. Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN (1991 đến 2000), tiết lộ lời của Lê Duẩn trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 24-1-2013.


KẾT LUẬN: HỒ CHÍ MINH = TỘI ĐỒ DÂN TỘC


Qua những hoạt động trên đây, thì HCM là một đảng viện CS Pháp, vâng lệnh Liên Xô và Trung Cộng, thành lập đảng CS Việt Nam, phá hoại nền văn hóa dân tộc, bành trướng chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á, và chủ động gây ra hai cuộc chiến liên tiếp từ 1946 dến 1975.  Theo thống kê của tạp chí Polska Times (Thời Báo Ba Lan) ngày 5-3-2013, trong 24 năm cầm quyền (1945-1969), HCM đã gây ra cái chết của 1,7 triệu người dân Việt.  


Như thế, cân nhắc những hoạt động và việc làm cu thể của Hồ Chí Minh, thì Hồ Chí Minh chỉ có công với cộng sản quốc tế, với Liên Xô, với Trung Cộng.  Ngược lại Hồ Chí Minh là kẻ có tội với đất nước Việt Nam, và Hồ Chí Minh là TỘI ĐỒ số 1 của dân tộc Việt Nam từ xưa tới nay, gây nhiều tội ác nhứt trong lịch sử Việt Nam.  Không chối cãi vào đâu được.


TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 01-09-2020)



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.