Hôm nay,  

Lại Chất Độc Nowitschok!

03/09/202008:46:00(Xem: 3922)


Bài của Georg Mascolo và Holger Stark*

Người dịch: Phạm Hồng-Lam


Chính phủ Đức vừa loan tin, nhà đối lập Alexej Nawalny ở Nga bị ám hại vì chất độc Nowitschok. Cách đây hai năm, ông Sergej Sripal người Nga ở Liên Hiệp Vương Quốc (Anh) và người con gái cũng bị hai sĩ quan tình báo từ Nga sang đầu độc bằng chất này. Chất độc này có tính năng ra sao? Và tại sao thế giới phương tây nhận diện được loại độc chất này? Bài viết sau đây cho biết một vài sự kiện liên quan.



Vào một buổi chiều tối giữa thập niên 90 có một người lạ đứng trước cổng Cơ Quan Tình Báo nước Đức (BND) ở Pullach, bang Bayern. Người này tự giới thiệu là một nhà khoa học từ Nga và yêu cầu được vào cửa. Cuộc hẹn đã được chuẩn bị từ trước. Những người trong cuộc cho hay, trước đó người lạ đã cho biết là ông muốn rời bỏ Nga để về với nước Đức. Ông đã trải qua một cuộc hành trình cam go, băng qua Ukraina và Áo để tới Đức. Và giờ đây ông đang đứng ở đây, và ông hứa vợ mình sẽ mang tới cho Đức một mẫu hoá chất bí mật đang được âm thầm nói tới, và sự kiện này sẽ mang lại những hệ quả gia trọng cho chính sách an ninh.

Mẫu hoá chất mà người vợ của anh điệp viên tìm cách chuồn qua biên giới Nga sau đó không lâu, để đưa vào Đức, chỉ cân nặng vài miligram, nhưng phải vô cùng cẩn trọng khi tiếp xúc với nó. Đây là một hợp chất gồm hai thành tố, mà theo lời điệp viên kia, nó là một vũ khí hoá học gây liệt thần kinh cực độc như chưa bao giờ có.

Chất độc này được biết dưới tên Nowitschok, tiếng Nga có nghĩa là „chất mới“, một hợp chất nổi tiếng thế giới từ dạo tháng Ba vừa rồi, khi cựu điệp viên nga Sergej Skripal và con gái của ông bị đầu độc ở Salibury, Anh quốc.

Sở dĩ phương tây biết được loại vũ khí hoá học này là nhờ một điệp vụ của Đức. Helmut Kohl, Thủ Tướng nước Đức lúc đó, đã tự quyết định chia sẻ cái biết độc quyền này cho một số thành viên quan trọng trong khối Nato. Trễ nhất là cho tới lúc đó người Anh biết được các chi tiết về Nowitschok.

Những hiểu biết của Đức đã góp phần giúp Thủ Tướng nước Anh, bà Theresa May, có thể cho thế giới biết, Skripal và con gái đã bị đầu độc bởi Nowitschok, chỉ trong vòng mấy ngày sau khi sự việc xẩy ra. Nhưng những thông tin tình báo của Đức đồng thời cũng cho thấy sự khó khăn trong việc xác định thủ phạm. Là vì cũng như một sản phẩm xe hơi, tuy cùng một loại nhưng lại có nhiều kiểu khác nhau, thì Nowitschok cũng được tiếp tục chế tác thành nhiều loại, mang những tên bàn giấy như A230, A232 hay A234. Và từ những năm 1990s nhiều quốc gia đã biết được công thức của chất đó; và chẳng hạn như Hoa-kì đã hoà trộn các chất đó với liều lượng nhỏ, để cải tiến các biện pháp để phòng của mình. Còn một số nước khác, ít nhất nhờ những tiết lộ của Đức, đã nắm được công thức của loại chất độc đó.

 Việc hồi chánh của nhà khoa học nga đã đẩy thủ tướng Kohl vào một tình cảnh khó khăn: Nước Đức có được phép tìm hiểu thứ vũ khí hoá học bị thế giới lên án không, cho dù đó là một mẫu thí nghiệm? Và Đức phải đối xử với Nga ra sao về việc khám phá ra thứ vũ khí bí mật bị cấm này, trong lúc Nga vừa để cho Đức được thống nhất đất nước? Nhưng Đức đồng thời cũng cần tới phe Đồng Minh!  

Qua các trao đổi với nhiều nhân vật trong cuộc ta có thể mô tả lại diễn tiến điệp vụ vô cùng tế nhị về mặt chính trị thời đó như sau: Phủ Thủ Tướng, Bộ Quốc Phòng, Cơ Quan Tình Báo từ chối cho biết í kiến, vì sợ lộ bí mật, mà cũng vì ngại làm nóng thêm những cuộc tranh luận về Nowitschok và về chính sách của Nga hiện nay.

Đầu thập niên 90, khi khối Đông Âu đang trên đường tan rã, tình báo Đức đã có được sự cộng tác của một nhà khoa học nga vốn làm việc trong chương trình vũ khí hoá học của Nga.

Lúc đầu, nhà khoa học này còn chần chừ, nhưng sau đó đã đồng í cộng tác. Ông còn quả quyết, là mình có thể lấy được một mẫu hoá chất giết người mà mình đang nghiên cứu. Tình báo đức như vừa bị điện giật vừa bị báo động. Bị điện giật, vì mới đây họ nghe phong phanh tin đồn, là Nga đang âm thầm chế biến một loại vũ khí hoá học mới, có lẽ xuất phát từ „nhóm các chất có chứa phốt-pho“. Nhưng cụ thể đó là chất nào thì họ mù tịt. Bị báo động, là vì theo các Thoả Ước Paris nước Đức trẻ sau 1954 không được phép tái võ trang các loại vũ khí có khả năng giết người hàng loạt – đặc biệt không được đụng đến hoá chất độc, mà trước đây Đức đã sản xuất và đã sử dụng trong Thế Chiến I. Giờ đây bỗng dưng họ lại có trong tay một thứ vũ khí loại đó, dù đấy mới chỉ là một mẫu thí nghiệm.

 Vấn đề được đưa lên tới Thủ Tướng và Quốc Vụ Khanh đặc trách tình báo, ông Bernd Schmidbauer. Hai người này nghĩ ra một kế để tránh hậu quả về sau: Schmidbauer trình bày tóm tắt sự việc cho Kohl trên một mẩu giấy màu vàng, và khi đọc xong thì Kohl huỷ ngay mẩu giấy này. Như thế chẳng để lại một dấu tích gì trong hồ sơ, và về sau, nếu cần, Kohl có thể chối là mình đã chẳng được thông tin về chuyện này. 

Những người trong cuộc nhớ lại rằng, trên mẩu giấy vàng đó Schmidbauer đã cho Kohl hay về nhân vật quy chánh và mẫu hoá chất. Sau ngày xuất hiện của nhà khoa học nga, Phủ Thủ Tướng triệu tập một cuộc họp trong vòng rất nhỏ, trong đó có mặt Konrad Porzner, Giám Đốc BND, và Volker Foersch, trưởng ban đặc trách những tình báo viên từ Nga. 

Câu hỏi quan trọng nhất của cuộc họp: phải làm sao với mẫu hoá chất có trong tay? Người Đức tự mình có thể có khả năng phân chất mẫu này. Nhưng các luật gia trong Phủ Thủ Tướng cảnh báo, việc mình sở hữu mấy miligram hoá chất kia là một vi phạm Thoả Ước Paris. Hơn nữa, Đức cũng vừa chuẩn nhận thoả ước cấm chế tạo và phổ biền các loại vũ khí hoá học vào năm 1994. „Chúng ta nhất thiết không muốn tạo cho người ta có cảm tưởng, rằng mình thích thú với những thứ vũ khí hoá chất như thế“, một nhân vật có mặt lúc đó đã nói như thế.

Thủ Tướng và các cố vấn đã quyết định không khám nghiệm mẫu đó ở Đức. Họ uỷ cho BND tìm liên lạc với một nước trung lập, để giúp việc này. Và Thuỵ-điển đã bằng lòng giúp. Với những thận trọng tuyệt đối mẫu thử đã được chuyển tới Thuỵ-điển.

Kết quả đã có được sau nhiều tuần khám nghiệm. Theo đó, đây là một thứ „vũ khí hoá học lạ gồm có hai thành tố“; nó rất độc và „phe Nato chưa có biện pháp nào để chống lại nó“. Thuỵ-điển gởi công thức về cho Đức. Nowitschok được phát hiện từ ngày đó.

 Quái lạ, không hiểu sao mà người Nga đã dấu sản phẩm bí mật đó được lâu như thế. Là vì từ tháng Năm 1971 Hội Đồng Bộ Trưởng của Liên-Xô và Uỷ Ban Trung Ương đảng cộng sản đã quyết định đẩy mạnh việc phát triển một loại vũ khí hoá học mới, thuộc đời thứ tư. Chương trình nghiên cứu này mang mật danh „Foliant“, được điều hợp bởi một viện nghiên cứu nằm chìm lấp giữa khu kĩ nghệ ở ngoại ô Moskau. Năm 1973 các nhà khoa học nga cho hay, họ đã thành công liên kết được một hợp chất hữu cơ phốt-pho cực độc; hợp chất này có khả năng ngăn chặn một enzym đặc biệt của cơ thể, gây co rút cơ bắp khiến ngạt thở và dẫn tới tê liệt cơ tim. 

Với thời gian, chất này được chế biến tinh tế hơn. Trong thập niên 80 Nga đã thành công phát triển được một hợp chất gồm hai thành tố hợp pháp vốn vẫn được dùng trong nông nghiệp. Nó chỉ trở nên độc hại, khi hai thành tố đó được hoà lẫn với nhau, ngay trước khi sử dụng. Với cách đó chương trình vũ khí hoá học được họ „núp dưới chiêu bài sản xuất sản phẩm thương mại hợp pháp“, như lời của nhà khoa học có tham gia chường trình „Foliant“ Wil Mirsajanow nhiều năm sau cho biết. Theo nhân vật này, trải qua nhiều năm Nga đã đưa vào kho vũ khí hoá học của mình ít nhất hai dị bản Nowitschok. Chúng tác động mạnh hơn loại độc chất VX gấp năm tới tám lần.

Năm 1987 tổng bí thư đảng cộng sản Michail Gorbatschow công khai tuyên bố, là Liên-Xô đã chấm dứt việc chế biến vũ khí hoá học. Sau đó, trong một thoả ước chung với Hoa-kì, ông hứa sẽ bạch hoá toàn bộ kho vũ khí hoá học của Liên-Xô. Để thiên hạ tin hơn vào lời tuyên bố đó, ông cho phép một nhóm kí giả và nhà ngoại giao ngoại quốc bay tới quan sát phòng thí nghiệm vũ khí hoá học bí mật của Hồng Binh tại tỉnh nhỏ Schichany. Nhưng ông im bặt về danh xưng Nowitschok; Nga dấu tiệt sự có mặt của loại vũ khí này.

Nhà khoa học hồi chánh trên đây không những đã nhờ vợ giúp chuyển sang Âu châu một mẫu hoá chất, mà còn cho người Đức biết, là ông cũng là kẻ có tham gia vào việc phát triển hoá chất đó. Do đó mấy giọt hoá chất lỏng chết người đã biến thành một vụ chính trị có khả năng gây hệ quả toàn cầu. Thủ tướng Kohl phải làm sao đây?

Trong những năm này, Kohl đang ở trong một hoàn cảnh rất tế nhị của một quốc gia vừa mới được thống nhất. Đối với người Mĩ, ông vận động họ triệt thoái hết kho vũ khí hoá học trên đất nước mình; tháng Bảy 1990 quân đội hoa-kì cho đóng 120.000 đầu đạn vào trong những thùng hàng kín cùng 437 tấn Sarin và VX xuống tàu chuyển về Hoa-kì. Phía Liên-Xô, Kohl thoả thuận được với Gorbatschow và sau đó với Jelzin triệt thoái toàn bộ quân đội và vũ khí nguyên tử ra khỏi phần đất Đông Đức cũ.

Jelzin lên thay Gorbatschow vào mùa hè 1991. Giữa Jelzin và Kohl nẩy sinh tình thân. Jelzin giới thiệu gia đình ông với Kohl và cả hai cùng đi tắm hơi trong biển Baikal. Nhờ sự thân thiết đó sự thống nhất của hai nước Đức đã có thể diễn tiến xuôi chảy. „Đã có một không khí đầy lạc quan và một sự tin cậy vững chắc giữa hai bên“, quốc vụ khanh Schmidbauer thời đó đã cho hay như thế.

Nhưng kết quả phân chất của phòng thí nghiệm thuỵ-điển đã làm xáo trộn tình trạng hài hoà ngoại giao. Nước Nga đã không ngừng nói láo trong quá khứ, nay họ vẫn còn chối về sự hiện diện của các vũ khí hoá học. Kohl và Schmidbauer đưa ra hai quyết định: Họ lệnh cho BND thông báo sự việc tới những thành viên quan trọng nhất của Nato: Hoa-kì, Anh, Pháp, Hoà-lan và Canada. Tình báo của sáu quốc gia này lập thành một nhóm, cùng nghiên cứu và trao đổi với nhau suốt nhiều năm về Nowitschok.  Quyết định thứ hai là một tín hiệu cho Moskau. Nhân một phái đoàn của Đức lại sang Nga, người đại diện của Kohl đã kéo người của Jelzin, trong đó có vị trưởng tình báo quốc ngoại của Nga, ra một nơi và cho họ biết, rằng Đức đã biết về thứ vũ khí hoá học kia rồi. Đức chẳng đưa ra lời đe doạ hoặc yêu sách nào cả, chỉ cho họ biết, là mình đã nắm được bí mật mà thôi. Người Nga đón nhận thông tin trong im lặng. Họ hiểu cái tín hiệu của Đức: Phương tây không muốn làm lớn chuyện Nowitschok và không muốn làm bẽ mặt Jelzin, nhưng vẫn ráo riết theo dõi mọi hành vi của Nga.

Sở dĩ công luận biết được sự có mặt của Nowitschok là nhờ nhà khoa học Will Mirsajanow, người làm việc tại viện nghiên cứu hoá học hữu cơ và kĩ thuật ở Moskau; viện này cũng tham dự vào việc chế biến Nowitschow. Tháng Mười 1991 Mirsajanow công bố một luận văn trên một tờ báo ở Moskau, trong đó ông bật mí cho biết, Nga đã thành công chế biến được một hoá chất cực độc mới, nhưng ông đã không đá động gì tới danh xưng Nowitschok. Một năm sau, tháng Chín 1992, ông phổ biến một bài thứ hai, bị bắt một thời gian, sau đó được di cư sang Hoa-kì vào năm 1995. Năm 2008 ông cho xuất bản một phần công thức của hoá chất độc đó.

Cho tới nay các học giả bên ngoài vẫn chưa nắm vững được công thức chính xác của Nowitschok. Nhưng nhờ sự trở về của nhà khoa học nga trên đây và nhờ thêm những người hồi chánh sau này khi Liên-Xô tan rã, phương tây đã nắm vững từ hơn 20 năm nay các chi tiết về loại hoá chất đó.

Mirsajanow vẫn còn sống ở Hoa-kì; ông cho biết, chất đó độc đến nỗi, chỉ có cấp quốc gia mới chế biến và sử dụng được nó. Wladimir Ugljow, một chuyên viên nga khác có liên hệ với Nowitschok, cho hay, muốn di chuyển chất đó tới địa điểm khủng bố hay đầu độc, cần phải có một thùng chân không thật kín để chứa các nắm bông gòn nhỏ và bột. Ở Salisbury người ta đã quệt chất này vào nắm cửa phòng của Skripal và ông này đã vô tình đụng vào.

Vị đại sứ đương nhiệm của Nga tại London quả quyết: „Chúng tôi không chế tạo và dự trữ Nowitschok.“ Dấu hiệu cho thấy người Nga nhúng tay trong vụ này đã rõ, nhưng chứng cứ cho thấy chính họ là thủ phạm quả thật còn thiếu. Anh cho biết, loại Nowitschok được sử dụng tại Salisbury là một sản phẩm của lò thí nghiệm tại Schichany, một thành phố nhỏ của Nga, nơi mà trong thập niên 80 Gorbatschow đã cho một nhóm nhà báo và nhà ngoại giao tới quan sát. Có thể chúng ta sẽ biết rõ hơn, khi so sánh độ tinh chất giữa mẫu của BND trước đây và mẫu lấy được ở Salisbury.

Nhà khoa học nga đứng trước cổng Sở Tinh Báo BND giữa thập niên 90 trước đây là một người hành động vì lí tưởng, chứ hoàn toàn không phải vì tiền; một người trong cuộc cho biết như thế. Ông đã đưa được vợ và các con sang với mình. Vụ Salisbury chứng minh cho thấy có thể xẩy ra những gì đã tiên đoán. BND đã tạo cho ông có một căn cước mới và đã bảo vệ ông trong nhiều năm. Kể từ 1998 sự bảo vệ này được chuyển qua tay quân đội. Nhưng tới nay ông vẫn không ngừng lo cho mạng sống của mình, vì ông biết, bà mẹ Nga của ông thù dai lắm.

    

* Mascolo là trưởng nhóm liên kết nghiên cứu của tập hợp các hệ thống truyền thông tại Đức „Süddeutsche Zeitung“, NDR và WDR.  Trích „Die Zeit“ ngày 17.5.2018. Đầu đề bài nguyên là: Thông Báo Và Làm Thinh.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.