Hôm nay,  

Mỗi Độ Xuân Về

11/02/202123:59:00(Xem: 3276)
 
HOA DAO
Hình minh họa
 
Cứ mỗi độ xuân về, khoảng đầu tháng chạp là nhà ngoại rộn ràng tất bật. Lò mứt bắt đầu vào mùa, mọi người trong nhà tăng tốc dần theo cái đà cận tết. Má, các dì, cậu… đều phải làm mứt cả. Khi ấy tôi thường được giao việc đi lấy nước giếng, giếng nhà ngoại nhiễm phèn, làm mứt sẽ không được trắng đẹp. Giếng nước từ nhà thờ họ cách chừng ba cây số, nước trong vắt, ngọt và mát lạnh, không chỉ làm mứt mà còn để uống ngon như nước đá. 
 
Mẹ tôi, dì tôi rất khéo tay, cắt đu đủ xanh thành những bông thược dược, những cái nơ đủ kiểu. Sau khi rim và nhuộm màu xanh, đỏ, vàng… trông rất đẹp mắt. Những trái bí đao to và dài như trái bom được cắt nhỏ ra thành những miếng cỡ ba ngón tay, rồi cắt thành những hình chữ nhật, hình thoi, hình oval...xăm cho mềm, luộc chín và rim đường. Món khó nhất, công phu nhất và cũng ăn khách nhất là những củ gừng rim, củ gừng vừa đủ độ già thì nhổ lên, giữ một số thân cây trên củ, củ được gọt vỏ và xăm cho mềm nhưng không được gãy hay rã nát. Củ gừng sau khi rim đường trông đẹp như bàn tay con gái, có củ giống con lạc đà, lại có củ giống như núi đồi chập chùng và nhiều hình dáng khác, tùy theo sự tưởng tượng của mọi người. Mứt gừng nhà ngoại đẹp và ngon nổi tiếng khắp vùng, mùi nước đường rim gừng thơm và ấm, lan tỏa trong không khí, bay xa khắp xóm. Rim gừng thì không thề không nhắc đến dụng cụ xăm gừng, đó là những khúc gỗ gòn nhỏ vừa nắm tay, một đầu được cắm đầy những cây kim may, dù làm thủ công nhưng những cây kim ngay hàng thẳng lối và đều tăm tắp. Ngày nay những món mứt cổ truyền xem ra không còn mấy ai chuộng, nghề làm cây xăm dường như cũng mai một. 
 
Những ngày tháng chạp bận tíu tít, người lớn trong nhà ai cũng mệt nhưng vui. Ba má tôi, dì tôi, cậu tôi vẫn thường nói:” Tháng chạp mới thật là tết, ra giêng đâu có vui”. Tôi và bọn con nít đâu có tin thường cãi rằng:” Tháng chạp đâu phải tết nên đâu có vui, tết mới vui” có lẽ vì tết mới được mặc áo mới, được lì xì, được nghỉ học chơi thả giàn mà hổng bị la. 
 
Tháng chạp không chỉ làm mứt, nhà ngoại còn làm bì, tré và nhiều món bánh trái khác nữa. Tôi thường được giao nhiệm vụ đi hái lá ổi, lá ổi gói bì, bên ngoài dùng rơm bó lại, thường thì đến mồng hai tết là vừa ăn. Bì làm từ những món thừa thãi đầu, đuôi, thủ vĩ của con heo… ấy vậy mà làm bì ăn ngon hết biết! Tháng chạp còn là mùa nhổ củ hoành tinh, vườn nhà ngoại ở trên quê ( không phải nhà trong thị trấn dùng để ở và mua bán) trồng rất nhiều hoành tinh, khóm, ổi, lá gai ( dùng để làm bánh ít)… Tôi khoái nhổ củ hoành tinh, rồi đào bới thêm để lấy cho hết những củ còn sót hay gãy. Củ hoành tinh vừa làm bột, làm mứt nhưng trước hết luộc một nồi ăn cho khoái khẩu. 
 
Những ngày gần cuối tháng chạp thật vui, trường cho nghỉ tết, tha hồ rong chơi. Nhà ngoại và nhà tôi quanh năm cúng kiếng chay, vì cả nhà ăn chay mười ngày mỗi tháng, duy chỉ có ngày tất niên là đặc biệt, là ngoại lệ cúng mặn. Tôi thường thắc mắc:” Nhà người ta ai cũng cúng gà, vịt, heo quay… nhà mình toàn cúng chay”. Ba tôi bảo:” Nhà mình thờ Phật, không sát sanh, không thể giết con vật rồi đem cúng. Con vật ấy có thể là thân nhân của mình trong kiếp quá khứ.”
 
Tháng chạp với người làm nông có vẻ nhàn hạ hơn, mùa màng tạm yên nhưng với những tiểu thương mua bán như nhà ngoại tôi thì bận tối mắt tối mũi. Vừa là lò mứt lại vừa buôn bán đồ cúng như: giấy tiền, giấy vàng bạc, áo ông táo, áo cô hồn… bán rất đắt hàng. Tôi nhớ đã có lần hỏi:” Sao nghe nói trong Phật giáo không có đốt vàng mã mà nhà mình lại bán?”Ba tôi giải thích:” Đạo Phật không có mê tín, đốt vàng mã là ảnh hưởng văn hóa tập quán của người Tàu. Nhà mình không đốt, chỉ mua chín bán mười kiếm chút lời mà sinh sống, tuy biết vàng mã không phải chính mạng nhưng cũng không đến nỗi gây hại cho người và vật, vì chưa biết làm gì để sống nên tạm bán mua để làm sinh kế”. Tháng chạp với những người làm nghề mua bán thì gần như bận bịu cả ngày đêm, ăn uống thất bát, nếu năm nào tháng chạp có ngày ba mươi thì họ còn có thêm thời gian để chăm chút bản thân, nếu năm nào chỉ có ngày hai mươi chín thì họ bận cho đến sáng mồng một mới có thời gian gội đầu, làm tóc, trang điểm…
 
Tháng chạp là mùa hoa, hoa từ các nhà vườn khắp nơi đem về bày bán. Hoa trong chợ thường là hoa cắt cành để chưng trên bàn thờ hay để cắm trong bình. Hoa trong chậu và các loại cành cội lớn thì bán dọc quốc lộ chạy xuyên qua thị trấn, bạt ngàn là hoa, nào là: cúc đại đóa, cúc mâm xôi, cúc kim, thược dược, vạn thọ, mào gà, mai, hồng, huệ, tắc, bonsai… Những năm tháng ấy chưa thấy hoa đào, có lẽ lúc ấy phương tiện vận chuyển còn khó khăn, phương nam nắng nóng chưa quen với hoa đào, tập quán chưng hoa chưa thích ứng với hoa đào…
 
Ngày ba mươi ( hoặc hai mươi chín) tháng chạp, ba và ngoại thường mang gạo, bánh mứt và ít tiền lên chùa cúng, sau đó đến ngày mồng một tết mới về lễ Phật chính thức. Tháng chạp quả là tháng bận rộn nhất trong năm của nhà tôi, của những tiểu thương trong thị trấn. Tháng chạp là tháng mà thu nhập bằng hai hoặc ba tháng khác. Tháng chạp là tháng mọi người tất bật tích trữ, mua sắm chuẩn bị cho cái tết cổ truyền. Sau này lớn lên tôi mới thấy câu nói của người lớn là đúng:” Tháng chạp mới là tết, ra giêng đâu có vui.”
 
Thế gian này vốn vô thường, thay đổi liên lỉ không ngừng nghỉ, có hợp thì có tan, các pháp hữu vi đều vì duyên sanh và cũng vì duyên mà diệt. Ngoại đã ra người thiên cổ, ba má giờ cũng đã già, trấn cũ ngày xưa giờ thay đổi cũng không còn nhận ra, phong vị tết ngày nay đã khác xưa, nhiều món sản vật và nghề thủ công cũng mai một, bánh mứt tết xưa giờ chẳng còn mấy ai chuộng. Duy cái ký ức tết xưa vẫn còn in đậm trong tâm thức tôi, mùi gừng rim thơm nồng ấm vẫn thoang thoảng trong tôi. 
 
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 01/2021
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.